Tự Thế Lộc hiệu Ngọ Phong, biệt danh là Nhị Thanh cư sĩ, Ngô Thì Sỹ sinh ngày 15-10-1726, thuộc đời thứ 12 của dòng họ Ngô Thì ở thôn Tả Thanh Oai, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội).
Tự Thế Lộc hiệu Ngọ Phong, biệt danh là Nhị Thanh cư sĩ, Ngô Thì Sỹ sinh ngày 15-10-1726, thuộc đời thứ 12 của dòng họ Ngô Thì ở thôn Tả Thanh Oai, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội).
Ngô Thì Sỹ là con của Ngô Thì Úc và là cha của Ngô Thì Nhậm. Thuở nhỏ, Ngô Thì Sỹ học ông nội là Ngô Trâu (Đan Nhạc). Sau đó ông lần lượt theo học các tiến sĩ Nghiêm Bá Đỉnh và Nhữ Đình Toản. Năm 1766,Ngô Thì Sỹ đỗ Hương tiến (cử nhân) sau đó ông được giữ chức Đông các Hiệu thư,rồi đượccử làm Hiến sát xứ Thanh Hóa. Năm 1770, ông nhậm chức Tham chính ở trấn Nghệ An. Cho đến lúc này, ông vẫn sống thanh bạch.
Năm 1771, ông chấm thi tại trường Nghệ An thì bị kiện là ăn hối lộ và bị bãi chức. Thực ra đó là điều vu khống của Hoàng Ngũ Phúc - một võ tướng có quyền thế nhưng vẫn kèn cựa với ông. Dưới chế độthối nát Lê - Trịnh, không lạ khi một người ngay thẳng, thanhliêm như phong kiến Ngô Thì Sỹ bị bọn cường thần ghen ghét. Không lấy thế làm buồn, ông thanh thản trở về quê tìm nguồn vui trong việc trước tác và dạy học.
Trọng nhân cách và tài năng của Ngô Thì Sỹ, hơn một năm sau (1773), chúa Trịnh Sâm phục chức cho ông. ít lâu sau, ông được thăng chức Thiêm đô Ngự sử có nhiệm vụ can giám vua chúa,đàn hặc các quan và vạch ra những chỗ sai sót trong chính sự. Năm 1777, ông được cử làm Đốc trấn Lạng Sơn. Với tư cách là Thiêm đô Ngự sử,Đốc trấn Lạng Sơn, Ngô Thì Sỹ đã gửi lên chúa Trịnh Doanh và Trịnh Lâm nhiều bản điều trần về tình hình nhân dânvà các chính sách cần phải thi hành.
Ông còn tập trung sức lực giải quyết nạn đói: Muốn giải quyết nạn đói phải làm cho dân đi phiêu tán yên tâm trở về quê cũ làm ăn. Ông sức cho dân chúng trong hạt: “Xã nào có người bỏ trốn đi không về nữa thì sẽ thu ruộng sung công rồi mộ người nơi khác đến ở, làm ruộng và phục dịch. Hẹn đến giữa tháng Giêng, người nào về đúng hẹn đều được khoan hồng tha cho những việc phục dịch còn bỏ sót từ trước và miễn cho việc phục dịch binh lính”.
Nhân dân tấp nập trở về. Ngô Thì Sỹ tự mình ra đồng khai hoang và cày cấy để làm gương. Vụ chiêm năm ấy, dân đỡđói. Đến vụtháng mười, được mùa to. Năm sau lại được mùa liền cả hai vụ, lúa vàng trĩu hạt đầy cót, đầy vựa, trong các làng bản đầy thóc. Có lẽ, lúc làm Đốc trấn Lạng Sơn, đem lại cho người dân vùng biên thùycuộc sống yên vui, no ấm, là lúc đắc chí nhất trong cả cuộc đời của Ngô Thì Sỹ.
Ngô Thì Sỹ rất yêu thiên nhiên. Việc quan có lúc nhàn rỗi, ông thường đi thăm nhân dân và các cảnh đẹp. ở Thanh Hóa, ông đã tìm thấy động đẹp trên núi Bàn A (xã Đại Khánh, huyện Đông Sơn). Sau khi tu bổ xong ông đặt tên là động “Quan lan sào” (Động ngắm sông). ở Lạng Sơn ông đãtìm ra động Nhị Thanh, một thắng cảnh đẹp xứ Lạng. Ngô Thì Sỹ viết nhiều. Ngày nay, chúng ta còngiữ lại được của ông các tập: NgọPhong văn tập, Bảo chướng hoành mô, Sách Chế khải tập, Anh Ngôn thi tập, Anh Ngôn phú tập và hai cuốn sử là Việt sử tiêu ánvà Quốc sử tục biên (cùng làm với nhiều người khác).
So vớinhững người trong bộ máy quan lại của triều đình Lê - Trịnh đương thời, thì ông là một trong số ít ngườithanh liêm, giữ tâm hồn thanh thản và có cuộc sống thanh bạch. Phong cách ấy có ảnh hưởng lớn đến người con trai cả của ông là Ngô Thì Thậm một vị quan thương dân, yêu nước, tên tuổi gắn liền với các chiến thắng quân sự, ngoại giao dưới triều vua Quang Trung.
Ngô Thì Sỹ mất năm 1780 ở Lạng Sơn, triều Tây Sơn đã truy phong ông là Lễ bộ Thượng thư, Văn dụ, Hồng liệt đại vương. Nhân dân làng Vĩnh Trại, huyện Thoát Lũng, Lạng Sơn có lập đền thờ ông sau khi ông mất.
HNM
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.