Chiều 26-2, Bộ Công Thương tổ chức họp đánh giá tác động của dịch Covid-19 đến các ngành sản xuất của Việt Nam. Thời gian tới, tác động của dịch Covid-19 đối với các ngành sẽ rõ rệt hơn, do đó cần có đánh giá cụ thể đối với từng ngành và lên phương án ứng phó.
Thiếu nguyên liệu sản xuất
Theo ông Trương Thanh Hoài, Cục trưởng Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), Trung Quốc là nước xuất khẩu lớn nhất các mặt hàng trung gian phục vụ ngành công nghiệp thế giới, đồng thời là thị trường tiêu thụ lớn của rất nhiều ngành hàng đa quốc gia. Do đó, ảnh hưởng của dịch Covid-19 tại Trung Quốc đã tác động lớn đến các ngành sản xuất, vận tải, logistics, phân phối, dịch vụ trên toàn thế giới chứ không chỉ Việt Nam.
Bên cạnh đó, tình hình diễn biến dịch bệnh ngày càng phức tạp bên ngoài Trung Quốc, dự kiến sẽ khiến kinh tế thế giới có thể bị ảnh hưởng nặng hơn như việc Hàn Quốc, Nhật Bản cũng đã bùng phát dịch bệnh và châu Âu, châu Mỹ phát hiện một số trường hợp dương tính với vi rút SARS-CoV-2 trong thời gian gần đây.
Cục trưởng Trương Thanh Hoài cho biết, các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo của Việt Nam hiện nay phụ thuộc rất lớn vào nguồn cung cấp nguyên phụ liệu, linh kiện đầu vào nhập khẩu từ Trung Quốc và các quốc gia khác cũng đang chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh như Hàn Quốc, Nhật Bản.
Trong đó, ngành điện, điện tử của Việt Nam là một trong những ngành chịu ảnh hưởng nhiều nhất. Năm 2019, Việt Nam nhập khoảng 40 tỷ USD các mặt hàng linh kiện điện tử từ Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Hiện nay, các doanh nghiệp điện tử chỉ còn đủ nguyên liệu phục vụ cho sản xuất đến khoảng cuối tháng 3-2020.
Tương tự, đa số các doanh nghiệp dệt may và da - giày chỉ dự trữ nguyên phụ liệu đến đầu tháng 3-2020 hoặc đầu tháng 4-2020.
Ngành sản xuất lắp ráp ô tô năm 2019 nhập khẩu gần 4 tỷ USD phụ tùng linh kiện ô tô, trong đó nhập khẩu từ Trung Quốc là 7 tỷ USD, Hàn Quốc là 1,14 tỷ USD... Dự kiến, đến cuối quý I-2020, các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô sẽ chịu ảnh hưởng lớn từ việc thiếu hụt nguồn linh kiện phục vụ sản xuất.
"Trong trường hợp phải tạm ngừng một phần hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất do thiếu hụt nguồn nguyên phụ liệu và linh kiện đầu vào, các doanh nghiệp sẽ chịu rất nhiều chi phí phát sinh như chi phí vốn vay ngân hàng, duy tu bảo trì máy móc, chi phí trả lương ngừng việc cho người lao động", ông Trương Thanh Hoài nói.
Cùng với việc thiếu nguyên liệu thì thị trường tiêu thụ cũng là vấn đề "đau đầu" của nhiều doanh nghiệp. Trung Quốc cũng như Hàn Quốc, Nhật Bản là thị trường tiêu thụ lớn đối với một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là các ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn như dệt may, da giày, túi xách, máy vi tính...
Đánh giá tác động từng ngành để có giải pháp cụ thể
Theo ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), doanh nghiệp xuất khẩu trong lĩnh vực công nghiệp chia thành 3 nhóm lớn: Dệt may, da giày; điện tử, ô tô và sắt thép, nhựa. Trong đó, những doanh nghiệp thuộc nhóm FDI, điện tử, ô tô ít có tác động thay đổi trong chuỗi cung ứng, chỉ có nhu cầu hỗ trợ tạo điều kiện thông quan nhanh nhất, khôi phục giao nhận vận tải sớm nhất.
Theo Cục Xuất nhập khẩu, kiến nghị quan trọng nhất hiện nay là hỗ trợ điều kiện giao hàng, thông quan, khôi phục tuyến đường bộ. Nhiều doanh nghiệp dệt may đề xuất bỏ nộp thuế VAT khi dùng vải trong nước.
“Cần tăng cường nội lực trong nước để bảo đảm nguồn cung, không chỉ trong thời kỳ dịch mà ngay cả khi dịch đã qua. Chúng tôi kiến nghị đưa nội dung này vào chương trình xúc tiến thương mại quốc gia thời gian tới. Trong chiến lược xuất nhập khẩu cần đưa vấn đề bảo đảm nguồn cung, đa dạng hóa thị trường nhập khẩu là định hướng lớn, tránh phụ thuộc chuỗi cung ứng vào một vài thị trường”, ông Trần Thanh Hải nhấn mạnh.
Còn đại diện Vụ Thị trường trong nước kiến nghị cần xem xét đến xây dựng liên kết chuỗi công nghiệp từ nguyên liệu đầu vào cho đến khi hàng hóa ra thị trường. Cùng với đó là phát triển hệ thống phân phối, hạ tầng thương mại.
Đánh giá tình hình thực tế hiện nay, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh nhấn mạnh: “Diễn biến của dịch bệnh ngày càng phức tạp, các thị trường quan trọng của Việt Nam đều đang chịu ảnh hưởng lớn của dịch bệnh. Song tôi cho rằng không nên bi quan, trầm trọng hóa tình hình. Chúng ta cần đánh giá kỹ lưỡng tác động của dịch để đưa ra chính sách hỗ trợ doanh nghiệp hiệu quả, khả thi. Một số ngành chủ lực hiện nay bị tác động ngay là dệt may, da giày, công nghiệp điện tử, công nghiệp chế biến chế tạo; thị trường trong nước cũng chịu tác động mạnh”.
Theo người đứng đầu Bộ Công Thương, cần đánh giá cụ thể mức độ tác động trong trường hợp dịch Covid-19 được khống chế thành công trong nửa đầu năm 2020. Bên cạnh đó, về dài hạn, cần đánh giá cả khả năng hồi phục sau này của thị trường.
“Chúng ta phải tập trung hoàn thành tốt khâu phân tích, đánh giá, dự báo được những tác động và hệ lụy có thể ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng nền kinh tế của Việt Nam. Đánh giá tác động đến doanh nghiệp. Báo cáo này phải hoàn thiện và làm việc kỹ hơn với địa phương, hiệp hội, ngành hàng. Có con số thống kê, đánh giá tương đối chính xác mới nắm bắt được mức độ, quy mô tác động cùng những dự báo, kịch bản để đưa ra chính sách, khung khổ chính sách của Chính phủ cho phù hợp”, Bộ trưởng Bộ Công Thương nhấn mạnh.
Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các chỉ tiêu tăng trưởng của công nghiệp phụ thuộc rất lớn vào tình hình khống chế dịch Covid-19.
Cụ thể, trong trường hợp dịch bệnh kết thúc trong quý I-2020, dự kiến giá trị gia tăng ngành công nghiệp quý I-2020 chỉ tăng 5,18% so với cùng kỳ 2019 (quý I-2019 và quý I-2018 tăng lần lượt 9% và 10,45%); trong đó, ngành chế biến, chế tạo - là ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các ngành công nghiệp chỉ tăng 6,28%.
Trường hợp dịch bệnh kết thúc cuối quý II-2020, dự kiến giá trị tăng thêm ngành công nghiệp trong quý II-2020 tăng 5,33% so với cùng kỳ 2019 (quý I-2019 và quý I-2018 tăng lần lượt là 9,24% và 8,34%); trong đó, ngành chế biến, chế tạo chỉ tăng 6,23%.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.