Ngày 16-4, tại đình làng Mọc Quan Nhân, UBND quận Thanh Xuân phối hợp UBND quận Nam Từ Liêm tổ chức lễ đón Bằng công nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia “Lễ hội 5 làng Mọc” phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân và phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm.
Tham dự buổi lễ có các đồng chí: Nông Quốc Thành, Phó Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Tiến sĩ Lê Thị Minh Lý, Phó Chủ tịch Hội Di sản Việt Nam; đại diện lãnh đạo Phòng Quản lý Di sản - Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội; Nguyễn Minh Tiến, Phó Bí thư Thường trực Quận ủy Thanh Xuân; Võ Đăng Dũng, Phó Bí thư Quận ủy, Chủ tịch UBND quận Thanh Xuân; Trần Thanh Long, Ủy viên Ban Thường vụ Quận ủy, Phó Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm; đại diện lãnh đạo một số phòng, ban chức năng của hai quận Thanh Xuân, Nam Từ Liêm, UBND phường Nhân Chính, UBND phường Trung Văn cùng đông đảo nhân dân hai địa phương.
Phát biểu tại buổi lễ, ông Đặng Khánh Hòa - Quận ủy viên, Phó Chủ tịch UBND quận Thanh Xuân cho biết, “Lễ hội 5 làng Mọc” là một loại hình lễ hội dân gian bắt nguồn từ tục kết chạ giữa các làng Mọc anh em, tạo thành sự gắn kết có tính cộng đồng trong cả một không gian vùng “Kẻ Mọc” - là một di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của quận Thanh Xuân, quận Nam Từ Liêm, hội tụ các giá trị lịch sử, văn hóa - xã hội hàng trăm năm của người dân hai phường và hai quận, thể hiện trình độ sáng tạo và sức lao động nhằm mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc của cư dân địa phương.
“Lễ hội 5 làng Mọc” là lễ hội truyền thống gắn liền với đời sống tín ngưỡng của nhân dân, vừa chứa đựng ý nghĩa tâm linh sâu sắc, vừa thể hiện sự kính trọng, biết ơn của con cháu với thần linh, tổ tiên và các bậc tiền nhân.
Sức lan tỏa của Lễ hội 5 làng Mọc chính là khát vọng mà người dân luôn hướng tới: Cầu cho quốc thái - dân an, cầu mong được dày phúc - nhiều lộc, một năm mưa thuận gió hòa, cả năm no đủ, tránh được bệnh dịch, mọi người khỏe mạnh.
Việc “Lễ hội 5 làng Mọc” được đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia theo Quyết định số 1727/QĐ-TTg ngày 27-5-2021 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có ý nghĩa quan trọng, là niềm tự hào của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân hai quận Thanh Xuân, Nam Từ Liêm và hai phường Nhân Chính, Trung Văn, có tầm ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống văn hóa, góp phần tạo thuận lợi cho công tác giữ gìn, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đặc sắc của vùng “Kẻ Mọc”. Đồng thời, đặt ra trách nhiệm đối với hai quận, hai phường và các tiểu ban quản lý di tích trong việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di tích.
Tương truyền, ngày xưa, nhân dân trong vùng đói kém, lũ lụt xảy ra liên miên, nhà cửa bị cuốn trôi, cây cối bị tàn phá, người chết đầy đường, bệnh dịch tràn lan, nạn đói triền miên. Làng Phùng Khoang được vua cho nấu cháo, cơm nắm để phát cho dân chúng. Một cậu bé nhà nọ sống sót đã đến lúc đói lả nhưng khi nhận được một nắm cơm đã chia cho 4 cậu bé khác cùng ăn. Năm người kết nghĩa anh em, sau này lớn lên, 5 người lập nghiệp ở vùng này, tạo dựng thành những làng trù phú, phát đạt, chính là 5 làng Mọc sau này.
Lễ hội này được hình thành từ tục kết chạ giữa năm làng Giáp Nhất, Chính Kinh, Cự Lộc, Quan Nhân và Phùng Khoang. Ở năm làng Mọc, mỗi làng thờ một vị Thành hoàng làng riêng. Làng Giáp Nhất thờ Phùng Luông - một vị tướng dưới thời Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng; làng Cự Chính thờ Đức Thánh Lã Đại Liệu - một nha tướng dưới thời Ngô Quyền; làng Quan Nhân thờ Trung Nghĩa Đại Vương Hùng Lãng Công - người có công đánh giặc Nam Chiếu và dưới phủ thờ phu nhân là Thánh bà Trương Mỵ Nương; làng Phùng Khoang thờ Đoàn Thượng tướng quân - một trung thần thời Lý.
Khoảng 600-700 năm trước, “Lễ hội 5 Làng Mọc” được ra đời, duy trì tổ chức. Do những nguyên nhân chủ quan, khách quan, Lễ hội 5 làng Mọc thời gian trước đây đã bị gián đoạn. Từ năm 1992, dân các làng thống nhất 5 năm tổ chức lễ hội một lần (gọi là Đại đám) vào ngày 11, 12 tháng Hai âm lịch theo hình thức luân phiên từng làng đăng cai; những năm không phải hội lớn, từng làng vẫn tổ chức riêng theo tập tục.
Cũng như các lễ hội truyền thống của cả nước, “Lễ hội 5 làng Mọc” là lễ hội dân gian được nhân dân địa phương lưu giữ, thực hành, trao truyền qua các thế hệ. Lễ hội có vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần, đời sống tâm linh, thể hiện sự biết ơn các vị tiền nhân, trách nhiệm và niềm tự hào của cộng đồng trong tổ chức lễ hội, truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong lao động, sản xuất, trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của nhân dân địa phương.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.