Cự Trình cùng với các làng của hai xã Đông Hội và Mai Lâm hiện nay nằm trong vùng Cói cũ, trong đó Cự Trình được coi là ”Cói gốc”, là địa bàn sinh tụ sớm của người Việt cổ. Theo lưu truyền dân gian thì xưa kia, làng Cự Trình có địa dư khá rộng, gồm cả phần đất của làng Lộc Hà hiện nay. Khi dân cư đông đúc, một bộ phận dân làng ra đi lập trại Lộc Hà, sau phát triển thành làng. Hai làng từng có chung ngôi đình Khiến.
Ban đầu, làng do 12 dòng họ lập ra là : Đào, Vương, Trương, Tạ, Phạm, Chử, Trần, Ngô, Đỗ, Nguyễn, Bùi, Cao. Trong văn tế ngày hội làng có lời mời tổ của 12 dòng họ về dự.
Trước Cách mạng Tháng Tám, làng Cự Trình là một thôn của xã Hội Phụ, tổng Hội Phụ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đến năm 1949, làng nhập với các làng: Đông Trù, Tiên Hội, Lại Đà, TrungThôn và Nội Thôn thành xã Đông Hội. Từ năm 1961, xã này được chuyển về huyện Đông Anh. Cũng từ năm 1949, làng đổi tên thành Hội Phụ.
Xưa kia làng có bốn xóm là : Đại Liệu (tên Nôm là Mã Nghè), Đình Âu (xóm Giếng), Tiểu Mai (xóm Đình) và Đại Luân (xóm Cổng). Trai đinh trong làng sinh hoạt trong bốn giáp : Đông Bắc, Đông Nam,Tây Bắc, Tây Nam.
Làng Cự Trình xưa có ngôi đình được dựng khoảng những năm 70 của thế kỷ XIX, song đã bị cháy trong một trận càn của giặc Pháp vào năm 1949. Hiện chỉ còn nhà tiền tế, theo kiểu Phương Đình, nên dân làng gọi là đình Vuông, tu bổ vào năm Thành Thái thứ 17 (1905). Đình thờ hai vợ chồng Đào Kỳ và Phương Dung, là những tướng lĩnh có công giúp Hai Bà Trưng đánh đuổi giặc xâm lược Hán, thu phục lại 65 thành trì.
Hàng năm, dân làng Cự Trình lễ thần vào các dịp: mồng bốn tháng Giêng, lễ Thánh Đản (Thánh sinh), Rằm tháng Ba, lễ chính, tổ chức rước, bắt đầu từ đình đến Lăng Ông (làng Phúc Thọ) rồi lại rước trở về đình làng để tế lễ, Rằm tháng Tám và ngày 11 tháng Mười, ngày giỗ của Thánh.
Tên làng Cự Trình vừa là sự mong ước, vừa để thể hiện truyền thống khoa cử của làng (Cự là cự phách, Trình là Trình Y Xuyên - một danh Nho nổi tiếng của nhà Tống ở Trung Quốc). Vì thế, làng có truyền thống học hành thành đạt. Theo các sách Đăn khoa lục, thời phong kiến, làng có sáu người đỗ đại khoa là :
1. Nguyễn Đình Liêu (1443 - ?), đỗ Hoàng giáp khoa Quý Mùi, niên hiệu Quang Thuận, đời Vua Lê Thánh Tông (năm 1463), làm quan đến Thượng thư.
2- Chử Phong, đỗ Tiến sĩkhoa Nhâm Thìn, niên hiệu Hồng Đức, đời Vua Lê Thánh Tông (năm 1472), làm quan đến Đề hình Giám sát Ngự sử. Năm 1476, ông được cử đi sứ sang nhà Minh.
3. Chử Thiên Khái, đỗ Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Cảnh Thống, đời Vua Lê Hiến Tông (năm 1502), làmquan đến Đô Ngự sử.
4. Chử Sư Đổng, đỗ Hoàng giáp khoa Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Thuận, đời Vua Lê Tương Dực (năm 1514), làm quan đến Thượng thư.
5. Chử Sư Văn, đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn, niên hiệu Quảng Hòa, đời Vua Mạc Phúc Hải (năm 1544), làm quan Tham chính sứ.
6. Ngô Thế Trị, đổi tên là Ngô Thế Dụng (1733 - 1798), đỗ Đình nguyên, Tiến sĩ khoa ất Mùi, niên hiệu Cảnh Hưng, đời Vua Lê Hiển Tông (năm 1775), làm quan đến Hàn lâm viện Đãi chế; được cử làm Phó sứ sang nhà Thanh.
Ngoài sáu người đỗ đại khoa, làng còn có nhiều người đỗ trung khoa. Thời Nguyễn làng có bốn người đỗ Cử nhân, đều thuộc họ Phạm là: Phạm Quyên (đỗ năm 1878), làmquan đến Tri phủ, là anh của hai Cử nhân: Phạm Bào (đỗ năm 1884), Phạm Hồn (đỗ năm 1886) và Phạm Duy Tiên (đỗ năm 1909, là con Phạm Hồn).
TS. Bùi Xuân Đính
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.