Tôi sắp lấy chồng nhưng hôm trước khi mang giấy tờ đi công chứng không may bị mất sổ hộ khẩu. Đề nghị quý báo cho biết điều kiện đăng ký kết hôn được pháp luật quy định như thế nào và khi đi đăng ký kết hôn, tôi có cần phải mang theo sổ hộ khẩu không? Trịnh Thị Thu Huyền (thị trấn Vân Đình, Ứng Hòa)
Tôi sắp lấy chồng nhưng hôm trước khi mang giấy tờ đi công chứng không may bị mất sổ hộ khẩu. Đề nghị quý báo cho biết điều kiện đăng ký kết hôn được pháp luật quy định như thế nào và khi đi đăng ký kết hôn, tôi có cần phải mang theo sổ hộ khẩu không?
Trịnh Thị Thu Huyền (thị trấn Vân Đình, Ứng Hòa)
Luật gia Hoàng Xuân Hiến (ĐT: 098.335.1928, email: hoangxuanhien qo@gmail.com) trả lời:
Theo Điều 9, Luật Hôn nhân gia đình năm 2000, quy định nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
1. Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên.
2. Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở.
3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại Điều 10 của luật này.
Tại Điều 18 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27-12-2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch quy định:
1) Khi đi đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải nộp tờ khai (theo mẫu quy định) và xuất trình giấy chứng minh nhân dân.
Trong trường hợp một người cư trú tại xã, phường, thị trấn này, nhưng đăng ký kết hôn tại xã, phường, thị trấn khác, thì phải có xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú về tình trạng hôn nhân của người đó.
Đối với người đang trong thời hạn công tác, học tập, lao động ở nước ngoài về nước đăng ký kết hôn, thì phải có xác nhận của cơ quan ngoại giao, lãnh sự Việt Nam tại nước sở tại về tình trạng hôn nhân của người đó.
Đối với cán bộ, chiến sĩ đang công tác trong lực lượng vũ trang, thì thủ trưởng đơn vị của người đó xác nhận tình trạng hôn nhân.
Việc xác nhận tình trạng hôn nhân nói trên có thể xác nhận trực tiếp vào Tờ khai đăng ký kết hôn hoặc bằng giấy xác nhận tình trạng hôn nhân theo quy định tại Chương V của nghị định này.
Việc xác nhận tình trạng hôn nhân có giá trị 6 tháng, kể từ ngày xác nhận.
2) Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy hai bên nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn
theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, thì ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký kết hôn cho hai bên nam, nữ.
Trong trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.
3) Khi đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải có mặt. Đại diện ủy ban nhân dân cấp xã yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì cán bộ tư pháp hộ tịch ghi vào sổ đăng ký kết hôn và giấy chứng nhận kết hôn. Hai bên nam, nữ ký vào giấy chứng nhận kết hôn và sổ đăng ký kết hôn, chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho mỗi bên vợ, chồng một bản chính giấy chứng nhận kết hôn, giải thích cho hai bên về quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Bản sao giấy chứng nhận kết hôn được cấp theo yêu cầu của vợ, chồng.
Vậy theo quy định trên thì những người thỏa mãn điều kiện kết hôn là những trường hợp đủ điều kiện kết hôn (không vi phạm điều cấm), khi đi đăng ký kết hôn không cần phải mang theo sổ hộ khẩu vẫn được đăng ký kết hôn, vì trong tờ khai về tình trạng hôn nhân đã có xác nhận của ủy ban nhân dân xã nơi người đó có hộ khẩu thường trú hoặc cơ quan nơi người đó công tác.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.