Theo dõi Báo Hànộimới trên

Hội thảo khoa học “Vai trò lịch sử của Thái sư Lưu Cơ”: Ghi nhận công lao của một danh nhân lịch sử

Lưu Ðoàn| 17/05/2022 05:13

(HNNN) - Ngày 15-5-2022, tại Hoàng thành Thăng Long (số 19C, phố Hoàng Diệu, quận Ba Đình, Hà Nội), Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam phối hợp với Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long - Hà Nội và Hội đồng Lưu tộc Việt Nam đồng tổ chức Hội thảo khoa học có chủ đề “Vai trò lịch sử của Thái sư Lưu Cơ”. Với sự hiện diện của nhiều lãnh đạo và chuyên gia nghiên cứu đến từ các bộ, ngành và địa phương, hội thảo này là dịp để ghi nhận đầy đủ hơn công trạng của một danh nhân có công lao to lớn với dân tộc trải qua 3 triều đại: Nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý.

Tượng đồng Thái sư Lưu Cơ thờ ở đình Đại Từ, xã Đại Đồng (huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên).

Thân thế và sự nghiệp

Theo “Phả ký tông từ họ Lưu” (viết vào đời vua Lý Anh Tông năm 1138, hiện lưu trữ tại đền Vạn Ngang, quận Đồ Sơn, Hải Phòng) và ngọc phả còn lưu tại đền, đình thờ Lưu Cơ, Thái sư Lưu Cơ sinh vào ngày mùng 3 tháng Giêng năm Canh Tý (940) tại trang Tri Hối (nay là thôn Tuy Hối, xã Gia Tân, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình). Thái sư Lưu Cơ vốn thuộc dòng họ Lưu “Yên Định xứ Hoan Châu”, tức là vùng đất Yên Định, nay thuộc xã Thịnh Lộc và xã Phù Lưu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Còn theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, Thái sư Lưu Cơ là một trong những vị khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp đại loạn 12 sứ quân thế kỷ X trong lịch sử Việt Nam, đồng thời là người cai quản Hoàng thành Thăng Long, có công tu sửa thành quay về hướng Nam (hướng về kinh đô Hoa Lư thay vì hướng về phương Bắc như chính quyền đô hộ đã làm) trước khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về kinh thành Thăng Long.

Năm 968, sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua, xưng là Đinh Tiên Hoàng - vị hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau thời Bắc thuộc. Năm 971, Đinh Tiên Hoàng phong Nguyễn Bặc làm Định Quốc công, Đinh Điền là Ngoại giáp, Lê Hoàn làm Thập đạo Tướng quân và Lưu Cơ là Đô hộ Phủ Sĩ sư. Nhưng theo “Việt sử lược” thì cũng năm đó, Đinh Tiên Hoàng phong người đầu tiên là Lưu Cơ làm Thái sư ở Đô hộ phủ, cai quản thành Đại La, thủ phủ của Giao Châu (Bắc Bộ ngày nay). Vai trò này của Lưu Cơ được đánh giá là sánh ngang hàng Phó vương, giúp Đinh Tiên Hoàng cai quản phần đất Giao Châu trọng yếu và giàu tiềm năng kinh tế nhất của nước Đại Cồ Việt đương thời.

Không những có công lớn trong việc dẹp loạn sứ quân lớn Lý Khuê ở Siêu Loại (Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay), mà Thái sư Lưu Cơ còn đóng góp công lao trong việc cai quản thành Đại La gần 40 năm (971 - 1010). Ông đã tu sửa thành Đại La, chuẩn bị đủ mọi điều kiện cơ sở hạ tầng cho cuộc dời đô của Lý Thái Tổ từ Hoa Lư ra Thăng Long chỉ trong vòng 2 tháng. Lưu Cơ đã trở thành một trong Tứ trụ triều đình (Tể tướng Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền, Thái sư Lưu Cơ và Thượng thư Trịnh Tú) đã có nhiều đóng góp tích cực trong việc thống nhất đất nước, phò tá triều đình và ổn định xã hội thành Đại La.

Không phải ngẫu nhiên mà sử sách xưa đã đề cao vai trò của Lưu Cơ: “Đinh Tiên Hoàng nhân khi nước Ngô loạn mất, bình được 12 sứ quân, trời cho người theo, thống nhất bờ cõi, dùng Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Trịnh Tú làm người phù tá, sáng chế triều nghi, định lập quân đội, vua chính thống của nước Việt ta, thực bắt đầu từ đấy, kể về mặt dẹp giặc phá địch thì công to lắm!”.

Vai trò lịch sử của Thái sư Lưu Cơ

Trong những năm gần đây, đặc biệt là dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, các nhà khoa học, chuyên gia và nhà nghiên cứu chuyên ngành, trong đó có Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và Hội đồng Lưu tộc Việt Nam, đã nghiên cứu, bổ sung và tổng hợp tư liệu sâu hơn, nhờ đó khẳng định những công lao của Thái sư Đô hộ phủ Lưu Cơ.

Sự nghiệp, vai trò lịch sử và công tích của vị khai quốc công thần Lưu Cơ gắn với 3 sự kiện quan trọng của 3 triều đại: Nhà Đinh, Tiền Lê và nhà Lý.

Thứ nhất, theo nghiên cứu của GS.TSKH Vũ Minh Giang - Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (tham luận tại Hội thảo “Vai trò của Nhà nước Đại Cồ Việt trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam”, tổ chức tại Ninh Bình, ngày 12-4-2018), Thái sư Lưu Cơ có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, lập nên nước Đại Cồ Việt, nhà nước phong kiến độc lập, tự chủ đầu tiên của nước ta từ thế kỷ X.

Điển hình là tướng quân Lưu Cơ được Đinh Bộ Lĩnh cử quản lĩnh 3.000 binh mã đóng quân tại trang Đại Từ, huyện Tế Giang, phủ Thuận An, Vũ Ninh (nay là thôn Đại Từ, xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên). Dân làng Đại Từ đã ủng hộ, theo Lưu Cơ bình định sứ quân Lý Lãng Công (Lý Khuê), cát cứ tại huyện Siêu Loại, nay là Thuận Thành, Bắc Ninh. Sau này ngài đã ban đất quan điền cho dân làng Đại Từ. Lý lịch di tích cấp tỉnh đình Đại Từ và đình phả đã bổ sung cho chính sử về chiến công này.

Thứ hai, theo “Đại Việt sử ký toàn thư” (trọn bộ, NXB Thời đại 2011, trang 129), Thái sư Lưu Cơ là vị quan đầu triều trông coi hình án, được đánh giá giữ vai trò của một Phó vương. Khi Đinh Bộ Lĩnh xưng đế vẫn giữ tên “Đô hộ phủ” của thành Đại La. Vì vậy, khi Lưu Cơ được giao làm Đô hộ phủ, nhiều người dễ nghĩ đó vẫn là An Nam Đô hộ phủ thời Bắc thuộc cho nên khi nghĩ đến Lưu Cơ dễ liên tưởng đến ý “Bắc thuộc”... Thực tế, thành Đại La - Đô hộ phủ đã vắng chủ từ khi Ngô Quyền đánh bại Kiều Công Tiễn năm 937 đến khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi chọn kinh đô ở Hoa Lư năm 968. Và theo cuốn “Hà Nội thời tiền Thăng Long” của Tiến sĩ Nguyễn Việt - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu tiền sử Đông Nam Á (NXB Hà Nội 2010, Tủ sách Thăng Long 1000 năm, trang 903), do tình thế phải trụ lại Hoa Lư hiểm yếu nên toàn bộ Giao Châu được vua Đinh Tiên Hoàng trao gửi ở Lưu Cơ với chức quan Thái sư Đô hộ phủ. Ngài cai quản “vựa lúa lớn nhất, cũng là “kho người, kho của” ở Lĩnh Nam là Giao Châu” (gồm toàn bộ khu vực đồng bằng Bắc Bộ) liên tục 40 năm (971 - 1010), xuyên suốt 3 triều đại phong kiến nhà Đinh, Tiền Lê và đầu nhà Lý. Thời Tiền Lê, ngài Lưu Cơ vẫn cai quản Giao Châu và đã huy động sức người, sức của của Giao Châu cho vua Lê Đại Hành đánh tan quân Tống xâm lược năm 981.

Thứ ba, cũng theo nghiên cứu “Thái sư Đô hộ phủ Lưu Cơ, người trao chìa khóa thành Đại La cho Lý Công Uẩn” của Tiến sĩ Nguyễn Việt, trong quá trình cai quản thành Đại La, Thái sư Đô hộ phủ Lưu Cơ đã cho xây dựng lại, cải tạo thành Đại La từ một tòa thành Bắc thuộc trở thành một tòa thành của Đại Cồ Việt trù phú, vững mạnh, đủ điều kiện tiên quyết cho Lý Công Uẩn thực hiện quyết định lịch sử dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Thành Đại La vốn có hướng trục chính, dinh thự và công sở hướng về phương Bắc. Phủ Thái sư Lưu Cơ không thể dùng nguyên thành Đại La cũ của Cao Biền, mà cho quay tất cả về hướng nam, tức là chầu về kinh đô Hoa Lư của Đại Cồ Việt. Những sửa sang cải tạo này vẫn được lưu giữ trong tầng văn hóa của Hoàng thành Thăng Long, nhờ khảo cổ đã phát hiện khá nhiều gạch ngói thời Hoa Lư, như gạch “Đại Việt quốc quân thành chuyên” và “Giang Tây quân”.

Theo nội dung cuốn “Bát Tràng - Làng nghề, Làng văn” (NXB Hà Nội, 2013, trang 52 và 292), công cuộc cải tạo thành Đại La cũng liên quan đến việc Lưu Cơ đưa dân nghề gốm từ vùng Bồ Bát, xã Bạch Liên, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình ra làng Bát Tràng (thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội ngày nay) nên Thái sư Lưu Cơ được thờ là Thành hoàng làng Bát Tràng - Thánh cả Lưu Thiên Tử đại vương.

Nhờ công lao của Thái sư Lưu Cơ, thành Đại La đã thực sự phát triển, ổn định, tạo tiền đề vững chắc để trở thành kinh đô Thăng Long - “đất đế đô muôn đời” vào tháng 7-1010.

(0) Bình luận
Đừng bỏ lỡ
Hội thảo khoa học “Vai trò lịch sử của Thái sư Lưu Cơ”: Ghi nhận công lao của một danh nhân lịch sử

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.