Theo dõi Báo Hànộimới trên

Cần nhìn nhận, đánh giá khách quan

Sơn Tùng| 29/04/2016 06:48

(HNM) - Thời gian vừa qua, những thông tin không chính xác về việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) ở các vùng rau đang khiến dư luận hoang mang. Người trồng rau kêu oan vì đã sử dụng thuốc BVTV đúng như hướng dẫn và tập huấn.



Để có cái nhìn khách quan về vấn đề sử dụng thuốc BVTV trên rau màu nói chung và các vùng rau an toàn của Hà Nội nói riêng, phóng viên Báo Hànộimới đã trao đổi với ông Ngô Đại Ngọc, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội xung quanh vấn đề này.

- Gần đây, dư luận lo lắng về các vùng rau của Hà Nội sử dụng thuốc BVTV. Theo quy trình kỹ thuật trồng RAT thì nông dân có được sử dụng thuốc BVTV không thưa ông?

- Hiện nay có 3 loại rau là rau hữu cơ, RAT theo tiêu chuẩn VietGAP và RAT ở những vùng được chứng nhận đủ điều kiện sản xuất an toàn. Thực tế, sản xuất rau hữu cơ trong 10 năm qua, diện tích mới chỉ tăng từ 2ha lên 30ha như hiện nay. RAT theo tiêu chuẩn VietGAP với những quy định thực hành khắt khe, toàn thành phố hiện cũng chỉ có vài trăm héc ta, còn lại chủ yếu là RAT ở các vùng đủ điều kiện sản xuất tới gần 5.000ha. Theo quy trình, kỹ thuật trồng rau thì với cả RAT theo tiêu chuẩn VietGAP và RAT thông thường đều được sử dụng thuốc BVTV. Không chỉ ở Hà Nội, các tỉnh, thành phố trong cả nước mà cả các nước tiên tiến như Nhật Bản, Mỹ, Pháp… cũng vẫn sử dụng thuốc BVTV trên rau màu. Vấn đề là dùng ra sao cho hợp lý mà thôi. Bởi một nền sản xuất hiện đại trong điều kiện môi trường sinh thái thay đổi không ngừng, nếu không có các loại thuốc BVTV thì cây trồng rất dễ bị sâu bệnh, năng suất thấp, không có nông sản đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc BVTV phải được dùng đúng liều lượng, kỹ thuật, thời gian từ khi phun thuốc đến thu hoạch phải bảo đảm đúng kỹ thuật mới bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm.

Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đúng kỹ thuật bảo đảm an toàn cho môi trường và an toàn thực phẩm. Ảnh: Thái Hiền


- Hiện nay, trên thị trường Hà Nội xuất hiện rất nhiều loại thuốc BVTV thảo mộc, có thời gian cách ly chỉ 3 đến 7 ngày. Nông dân cho rằng, họ thực hiện đúng như khuyến cáo trên bao bì sản phẩm, còn về cảm quan đối với truyền thông thì cho rằng vấn đề này là không ổn, vậy quan điểm của ông ra sao?

- Nếu là thuốc trong danh mục cho phép thì việc sử dụng theo khuyến cáo là bình thường. Tuy nhiên, phải thừa nhận hiện có tới cả nghìn loại thuốc BVTV trong danh mục cho phép và một số nông dân cố lạm dụng phun quá liều lượng, phun ghép nhiều loại thuốc BVTV khác nhau. Do vậy, mấu chốt vẫn là ngoài việc hướng dẫn nông dân sử dụng đúng, tăng cường kiểm tra các vùng rau, cần quản lý thật chặt các cửa hàng kinh doanh thuốc BVTV. Hiện mỗi vùng rau có tới cả nghìn hộ tham gia sản xuất. Nếu như 1.000 hộ làm tốt, chỉ còn vài chục hộ làm ẩu thì hậu quả, tai tiếng là khó tránh khỏi, không khác gì “con sâu làm rầu nồi canh”.

- Vậy để quản lý tốt hơn các vùng RAT đặc biệt là việc sử dụng thuốc BVTV, cần phải làm gì thưa ông?

- Theo tôi cần một giải pháp đồng bộ trên nhiều mặt. Trước tiên là cần siết chặt lại thị trường kinh doanh thuốc BVTV. Trước đây khu vực HTX phát triển, toàn bộ thuốc BVTV cũng như các vật tư nông nghiệp thiết yếu đều do HTX đứng ra cung ứng thì thuốc giả, thuốc cấm, kém chất lượng… hầu như không có đất sống. Hiện nay, ở các vùng rau lớn có tới vài chục hộ đứng ra kinh doanh, cạnh tranh lẫn nhau và có nhiều mánh khóe. Vì vậy chính quyền địa phương cần quản lý chặt các cửa hàng này, đồng thời xây dựng, tạo điều kiện cho 1 cửa hàng lớn nhất, bán hàng tốt nhất về mặt bằng, nhân lực rồi tuyên truyền để nhân dân nắm được, dần tẩy chay các cửa hàng nhỏ lẻ, kinh doanh chộp giật. Mặt khác, các HTX phải tổ chức được các tổ dịch vụ phun thuốc BVTV. Các địa phương cần quy hoạch lại sản xuất theo hướng tập trung. Cán bộ nông nghiệp không thể đứng 24/24 giờ để canh nông dân phun thuốc nhưng việc cần làm là quản lý chặt để nông dân tự giác thực hiện. Thêm nữa là nâng cao hiệu quả công tác tập huấn sản xuất RAT. Hiện nay, công tác này vẫn còn nhiều hạn chế như quy định tập huấn ngắn ngày (không quá 3 buổi), nhiều hộ người trực tiếp sản xuất thì không đi mà nhờ người già, người thân khác đi học hộ nên chưa áp dụng đúng vào sản xuất. Ngành Nông nghiệp cũng cần mạnh dạn chứng nhận các sản phẩm an toàn để khuyến khích sản xuất cũng như định hướng tiêu dùng.

- Để truyền thông đúng về việc sử dụng thuốc BVTV trên rau màu cũng như có các khuyến cáo hữu ích đối với người tiêu dùng, theo ông cần phải làm gì?

- Tôi cho rằng hiện đa số các vùng RAT của Hà Nội đạt chất lượng. Nhưng cái yếu lớn nhất của ngành là không tuyên truyền để người dân hiểu rõ. Và chưa có sự minh bạch rõ ràng đối với các hộ làm ăn ẩu, các thương lái và các đơn vị làm ăn gian dối, làm nhũng nhiễu thông tin, thật giả lẫn lộn. Cá nhân tôi cho rằng truyền thông có vai trò quan trọng vô cùng, đồng hành với cơ quan nhà nước trong việc quản lý sản xuất và tiêu thụ RAT, tuy nhiên truyền thông phải giúp xã hội làm rõ vấn đề chứ không phải là đánh đồng tất cả, làm nhiễu loạn thông tin.

- Cảm ơn ông về cuộc trao đổi!

(0) Bình luận
Đừng bỏ lỡ
Cần nhìn nhận, đánh giá khách quan

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.