(HNM) - Sau gần 25 năm mở cửa hướng mạnh vào xuất khẩu, lại một lần nữa tinh thần dân tộc được đặt lên hàng đầu với cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam". Đây là thời cơ lớn cho doanh nghiệp Việt tìm về thị trường trong nước.
Đến nay, sau hơn 5 tháng triển khai, cuộc vận động đã bước đầu cho tín hiệu lạc quan. Hàng hóa có nguồn gốc Việt đã xuất hiện với mật độ nhiều hơn, người tiêu dùng đã quan tâm đến hàng Việt nhiều hơn. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng để cuộc vận động này đi vào thực chất, rất cần một chiến lược bài bản nhằm thúc đẩy thị trường nội địa.
Động lực từ chính sách
Từ khi đổi mới đến nay, các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước đã tạo môi trường ngày càng thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp (DN) và các ngành sản xuất, kinh doanh. Chúng ta đã gặt hái được nhiều thành công trong thu hút đầu tư nước ngoài, góp phần quan trọng tạo nên những sản phẩm "made in Vietnam" phong phú, chất lượng tốt hơn, cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, theo nhận định của một số chuyên gia kinh tế, trong từng lĩnh vực cụ thể, từng thời điểm nhất định, không ít chính sách đã nặng về ưu ái các nhà đầu tư nước ngoài, gây bất bình đẳng đối với đông đảo DN nhỏ và vừa trong nước, khiến cho sự phát triển của DN trong nước và các thương hiệu Việt Nam bị hạn chế phần nào.
Nhiều năm qua, những chính sách cũng như hành động thiết thực về kích cầu phát triển thị trường nội địa, bảo hộ hàng hóa sản xuất trong nước mới chỉ manh mún và tự phát. Không hiếm cơ quan nhà nước có sự thiên vị rõ ràng từ việc dành nguồn lực, tạo cơ hội làm ăn đến tiêu thụ sản phẩm cho các DN nước ngoài hơn là cho DN Việt và hàng Việt. Khi thiếu một chiến lược dài hơi như thế, các chương trình đầu tư phát triển thị trường nội địa khó mang lại hiệu quả cao. Mặc dù những lợi thế nhìn thấy được như nhân công, nguyên liệu trong nước, chi phí sản xuất, chi phí vận chuyển, chính sách thuế... để phát triển thị trường nội địa là rất lớn, rất thuận lợi.
Có một thực tế là khi đề cập đến tình hình kinh tế một địa phương, thậm chí cả nước, những thông số nổi bật nhất luôn tính bằng đơn vị USD: GDP, kim ngạch xuất khẩu, tổng vốn thu hút đầu tư nước ngoài... Với xuất phát điểm của Việt Nam, đó là những ưu tiên đúng đắn. Nhưng dường như quá chuyên chú việc làm thế nào để tăng thêm "đơn vị ngoại tệ", các nhà làm chính sách đã vô tình bỏ trống nội thương cho các DN nước ngoài. Điều này thể hiện rất rõ trong nhiều quy hoạch ngành và ngay các điều kiện ưu đãi của Nhà nước cũng tập trung cho xuất khẩu, khi luôn đề ra mục tiêu nổi bật là xuất khẩu được bao nhiêu, làm thế nào để có khách hàng mới...
Trong khi các nhà hoạch định chính sách tìm mọi cách xúc tiến thị trường xuất khẩu, dưới mắt các DN nước ngoài, Việt Nam luôn dẫn đầu danh sách thị trường bán lẻ được "thèm muốn" nhất thế giới. Bởi bên cạnh sự hấp dẫn của 86 triệu người tiêu dùng trẻ, chi tiêu 70% thu nhập vào mua sắm còn có sức hút không nhỏ từ ưu đãi trong cấp phép đầu tư của các địa phương cho nhà đầu tư ngoại. Thị trường bán lẻ là điển hình. Đã có không ít nhà bán lẻ Việt Nam không giấu giếm sự ghen tị với DN ngoại như Metro, Big C… trong việc được hưởng những ưu đãi về chính sách dành cho các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn, Metro được ưu đãi về thuế thu nhập DN, còn nhà bán lẻ trong nước thì không.
Một dẫn chứng về sự xem nhẹ của cơ chế, chính sách trong phát triển thị trường nội địa là lâu nay có rất ít chương trình xúc tiến thương mại cho thị trường nội địa mà chỉ có xúc tiến thương mại hỗ trợ xuất khẩu. Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia có hiệu lực từ cuối năm 2005 ngay từ đầu đã khẳng định "được xây dựng theo định hướng về thị trường, ngành hàng xuất khẩu của chiến lược xuất khẩu thời kỳ 2006-2010". Mỗi năm Nhà nước đầu tư cho chương trình này từ hàng chục đến hàng trăm tỷ đồng (ví dụ, năm 2009 là 172 tỷ đồng). Hệ quả là việc phân bổ nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước mất cân đối nghiêm trọng (thay vì hài hòa cho cả ba "chân trụ" thì lại chỉ tập trung cho thu hút đầu tư nước ngoài và xuất khẩu). Một số chuyên gia kinh tế bình luận rằng những bất cập trong cơ chế, chính sách ưu tiên phát triển thị trường như trên đã gây ra nhiều tác hại đối với nền kinh tế. Vì được sự hỗ trợ tối đa để xuất khẩu, từ lãi vay, tỷ giá hối đoái, vốn tín dụng đến thuế, mặt bằng... nên trong suốt một thời gian dài DN chỉ lo xuất khẩu mà bỏ quên thị trường nội địa. Tai hại hơn, DN thường chọn hình thức dễ làm nhất là gia công hàng hóa, công đoạn ít tạo ra giá trị gia tăng nhất trong chuỗi hàng hóa toàn cầu và chính điều này đã làm suy yếu năng lực cạnh tranh của DN ngay tại thị trường nội địa.
Chiến lược dài hơi
Trong bối cảnh đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng, người tiêu dùng trong nước có quyền chọn lựa rộng hơn, đòi hỏi cao hơn ở các DN. Điều quan trọng nhất để chinh phục người tiêu dùng trên thị trường nội địa là DN Việt phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, khả năng đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng cao của họ chứ không phải là đòi hỏi tinh thần yêu nước và sự hy sinh lợi ích của người tiêu dùng. Để làm được điều này, ngoài sự nỗ lực cao độ của DN, các cơ quan nhà nước rất cần điều chỉnh các chính sách và cách xử lý cụ thể để hỗ trợ nhiều hơn cho phát triển sản xuất và thị trường trong nước theo tinh thần cuộc vận động lần này.
Nhiều chuyên gia khi được hỏi về vấn đề phát triển thị trường nội địa đã nhấn mạnh rằng, để chiếm lĩnh thị trường nội địa, cần có sự kết hợp giữa Nhà nước, DN và người tiêu dùng. Các bộ, ngành chức năng như Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Bộ Kế hoạch - Đầu tư... cần khẩn trương nghiên cứu việc cấu trúc lại thị trường để có sự đồng nhất giữa thị trường xuất khẩu và nội địa, không còn phân biệt hàng hóa sản xuất cho xuất khẩu và cho thị trường nội địa; đặc biệt là vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng thương mại, chính sách kích cầu, hỗ trợ tài chính cho DN đầu tư hệ thống này. Đồng thời có chính sách hỗ trợ người tiêu dùng khu vực nông thôn và người có thu nhập thấp mua tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng nội địa. Thậm chí, trong bối cảnh khó khăn như hiện nay, ưu đãi càng phải hơn nhiều, như tiếp tục thực hiện chính sách giảm, giãn nợ thuế thu nhập doanh nghiệp, tạo quỹ đất để phục vụ sản xuất, kinh doanh... Việc bảo đảm sự kết nối chặt chẽ giữa tổng cầu của thị trường nội địa với định hướng sản xuất, phân phối... rất quan trọng cho chiến lược phát triển thị trường của từng DN. Nếu thiếu sự gắn kết linh hoạt giữa hai yếu tố này, tức là thiếu đi một "đường ray"...
Theo đánh giá của một số chuyên gia, Nhà nước cần khẩn trương có ngay chính sách khuyến khích phát triển thị trường nội địa để thúc đẩy sản xuất trong nước, đồng thời cần bãi bỏ những chính sách hỗ trợ xuất khẩu làm méo mó thị trường. Ví dụ, việc hỗ trợ thông qua tỷ giá hối đoái như hiện nay thực chất chỉ khuyến khích nhập khẩu hàng hóa, hoàn toàn không có lợi gì cho xuất khẩu cũng như sản xuất trong nước. Bên cạnh đó, Nhà nước nên tập trung nguồn lực cải thiện cơ sở hạ tầng, hệ thống luật pháp, giáo dục, môi trường đầu tư kinh doanh...
Muốn phát triển thị trường nội địa mang tầm chiến lược, phải có "kịch bản" cụ thể. Kịch bản mang tính khả thi cao là các cơ quan quản lý cần tổ chức điều tra, nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về thị trường nội địa. Cần sớm tiến hành các hoạt động điều tra nghiên cứu kỹ lưỡng để lường được tổng cầu của thị trường trong các giai đoạn phát triển khác nhau. Một biện pháp khác có thể thực hiện ngay là tăng cường hoạt động quản lý thị trường, đặc biệt kiểm tra chặt chẽ đầu vào (hóa đơn mua hàng và nhãn mác) đối với hàng nhập khẩu, nhất là hàng nhập qua đường tiểu ngạch. Nếu làm nghiêm sẽ ngăn được cơn lũ hàng nhập lậu từ nước ngoài đổ về.
Phát triển thị trường nội địa, thúc đẩy hoạt động thương mại và bảo hộ hàng hóa sản xuất trong nước cần một tầm nhìn chiến lược dài hơi.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.