(HNM) - Đề án “Cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp” và Đề án “Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội” sẽ được Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII cho ý kiến tại Hội nghị lần thứ bảy, dự kiến khai mạc vào ngày 7-5...
Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Doãn Mậu Diệp. |
Thấy rõ nhiều hạn chế, bất cập
- Trước tiên, ông đánh giá thế nào về chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội hiện hành?
- Ở nước ta, chính sách tiền lương đã trải qua 4 lần cải cách vào các năm 1960, 1985, 1993 và 2003. Nhờ đó, tiền lương khu vực công từng bước được cải thiện, góp phần nâng cao đời sống của người hưởng lương. Tiền lương khu vực doanh nghiệp từng bước thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Mức lương tối thiểu được luật hóa, hình thành trên cơ sở thương lượng tại Hội đồng Tiền lương quốc gia với thành phần cân bằng giữa ba bên: Đại diện của người lao động, doanh nghiệp và Nhà nước, phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế.
Bên cạnh đó, chính sách bảo hiểm xã hội đã bao phủ hầu hết các chế độ mà Tổ chức Lao động quốc tế khuyến nghị, bao gồm bảo hiểm hưu trí - tử tuất, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm ốm đau, thai sản, bảo hiểm tai nạn lao động. Số lượng và tỷ lệ người lao động tham gia bảo hiểm xã hội ngày càng tăng; đối tượng được hưởng các chế độ ngày càng nhiều. Hiện tại, cả nước có gần 14 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội; 11,7 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp… Năng lực tự bảo đảm an sinh của người dân được tăng cường. Quỹ Bảo hiểm xã hội trở thành quỹ an sinh lớn nhất, hoạt động theo nguyên tắc đóng - hưởng, chia sẻ và có thể tiếp cận với nhiều nhóm đối tượng.
- Tại sao phải cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, thưa ông?
- Có nhiều lý do. Cụ thể, chính sách tiền lương trong khu vực công còn phức tạp, thiết kế hệ thống thang, bảng lương chưa phù hợp với vị trí việc làm, chức vụ, chức danh. Tiền lương chưa phải là thu nhập chính của cán bộ, công chức, còn mang tính bình quân, cào bằng, chưa tạo động lực để nâng cao hiệu quả làm việc; chưa có cơ chế tiền thưởng để khuyến khích sáng kiến, sáng tạo, đổi mới phong cách làm việc, nâng cao đạo đức công vụ và chất lượng, hiệu quả công tác...
Trong khu vực doanh nghiệp, tiền lương của người lao động chưa thực sự gắn với năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh; chưa phát huy được vai trò, tác dụng của cơ chế thương lượng, định đoạt tiền lương giữa người sử dụng lao động và người lao động. Độ bao phủ của mức lương tối thiểu còn hẹp…
Trong khi đó, chính sách bảo hiểm xã hội chưa hướng đến sự bao phủ toàn dân. Hệ thống bảo hiểm xã hội về cơ bản là thiết kế đơn tầng, chủ yếu là tầng bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức. Quy mô tham gia bảo hiểm xã hội còn thấp, mới đạt khoảng 30% lực lượng lao động, trong khi mục tiêu đề ra là đến năm 2020, cả nước có 50% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp quá chú trọng đến giải quyết hậu quả, thiếu giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu tác động của tình trạng thất nghiệp.
Nguyên tắc đóng - hưởng trong tính toán mức lương hưu được tôn trọng, nhưng nguyên tắc chia sẻ chưa được chú ý, dẫn đến những bất hợp lý khó chấp nhận là có người hưởng lương hưu tới 100 triệu đồng/tháng, nhưng có người chỉ nhận được hơn một triệu đồng/tháng. Tuổi nghỉ hưu quy định từ năm 1960 đến nay chưa điều chỉnh, trong khi đất nước đứng trước thách thức của già hóa dân số.
Để khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên, tất yếu phải cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, nhất là chính sách bảo hiểm xã hội. Nhiều nước đã tiến hành trước ta và họ đã thành công.
Nhiều điểm mới mang tính đột phá
- Xin ông cho biết những điểm mới về chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội được đề cập tại các dự thảo đề án trình Hội nghị Trung ương lần thứ bảy?
- Mục tiêu của cải cách chính sách tiền lương lần này là phải làm cho được tiền lương là thu nhập chính, bảo đảm đời sống cho người lao động và gia đình họ; thu hẹp khoảng cách tiền lương giữa khu vực công với khu vực thị trường để có thể thu hút nhân lực chất lượng cao vào làm việc ở khu vực nhà nước.
Đối với khu vực hành chính, Nhà nước sẽ bãi bỏ hệ thống gồm 7 bảng lương với các hệ số hiện nay, thay bằng 5 bảng lương mới, được thiết kế theo vị trí việc làm, chức vụ, chức danh. Bảng lương chức vụ áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo trong hệ thống chính trị từ trung ương tới cơ sở. Bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ theo ngạch công chức và chức danh nghề nghiệp, áp dụng chung đối với công chức, viên chức không giữ chức danh lãnh đạo. Riêng lực lượng vũ trang sẽ có ba bảng lương, bao gồm bảng lương dành cho sĩ quan, hạ sĩ quan; bảng lương dành cho quân nhân chuyên nghiệp, chuyên môn nghiệp vụ và bảng lương dành cho công nhân quốc phòng, công an.
Quỹ tiền lương ở khu vực công được thiết kế gồm 3 phần, gồm phần để trả lương cơ bản - chiếm khoảng 70% tổng quỹ lương; phần chi cho các khoản phụ cấp - chiếm khoảng 30% tổng quỹ lương; phần tiền thưởng - tối đa bằng 10% quỹ lương cơ bản năm. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có quyền sử dụng kinh phí chi thường xuyên để sử dụng, tuyển dụng nhân tài.
Đối với khu vực doanh nghiệp, lương tối thiểu vùng được đề xuất điều chỉnh phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội, khả năng chi trả của doanh nghiệp và mức sống của người lao động. Bên cạnh mức lương tối thiểu tháng, đề án quy định mức lương tối thiểu giờ, nhằm hướng tới mục tiêu đến năm 2020, mức lương tối thiểu bảo đảm được mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ. Nhà nước giảm dần sự can thiệp, tiến tới các doanh nghiệp tự quyết định chính sách tiền lương trên cơ sở thương lượng, thỏa thuận với người lao động.
Chính sách bảo hiểm xã hội cũng có những nội dung cải cách rất mới, rất căn bản, khẳng định mục tiêu hướng tới bảo hiểm xã hội toàn dân; xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội với chương trình hưu trí đa tầng. Tầng một là lương hưu xã hội do Nhà nước bảo đảm cho người già không có lương hưu; tầng hai là bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức như hiện nay; tầng 3 là hưu trí bổ sung do doanh nghiệp và người lao động thỏa thuận, giao kết với tổ chức cung cấp dịch vụ…
Đặc biệt, Đề án “Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội” tiếp tục đặt ra vấn đề điều chỉnh tuổi hưu, thời gian điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu từ ngày 1-1-2021. Dự kiến, người lao động bình thường, trong điều kiện lao động bình thường sẽ tăng thêm mỗi năm 3 tháng hoặc 4 tháng cho đến khi nam đủ 62 tuổi, nữ đủ 60 tuổi. Những đối tượng lao động đặc thù có thể nghỉ hưu sớm hoặc muộn hơn tương tự như hiện nay.
- Nhiều ý kiến lo ngại, đề xuất tăng tuổi nghỉ hưu trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, tuổi thọ dân số ngày càng cao sẽ làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp ở giới trẻ, ông thấy sao?
- Đúng là có những lo ngại, nếu nâng tuổi nghỉ hưu có thể ảnh hưởng đến việc làm của giới trẻ. Không chỉ lo lắng về việc gia tăng tỷ lệ thất nghiệp, nhiều người còn băn khoăn nâng tuổi nghỉ hưu chỉ phù hợp và có lợi đối với những người làm việc trong khu vực hành chính, trong khi lực lượng lao động này chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng số lao động xã hội.
Khi điều chỉnh tuổi nghỉ hưu, các nước trên thế giới cũng gặp phải những lo ngại tương tự, nhưng họ vẫn tiến hành điều chỉnh theo lộ trình phù hợp và đã thành công. Điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu giúp cho các quốc gia chủ động ứng phó với nguy cơ thiếu lao động do dân số bị già hóa. Tuy nhiên, nếu không điều chỉnh dần tuổi nghỉ hưu thì nước ta không thích ứng được với cơ cấu dân số già hóa trong tương lai. Bài toán nâng dần tuổi nghỉ hưu là vấn đề của quốc gia, vì lợi ích quốc gia, chứ không vì lợi ích của bất kỳ nhóm đối tượng nào.
Cần sự đồng lòng, quyết tâm
- Theo ông, nếu được triển khai, chính sách cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội sẽ mang lại hiệu quả như thế nào?
- Nếu được triển khai, tôi tin những chính sách này sẽ mang lại hiệu quả toàn diện. Chính sách tiền lương sẽ phù hợp, đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo động lực giải phóng sức sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng nguồn nhân lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần xây dựng hệ thống chính trị ổn định, thống nhất, liên tục, thông suốt, tinh gọn...
Trong đó, bảo hiểm xã hội sẽ thực sự trở thành trụ cột bền vững của hệ thống an sinh xã hội. Mọi người dân đều được thụ hưởng đầy đủ các chính sách an sinh xã hội, không ai bị bỏ lại phía sau. Khoảng cách chênh lệch về giới, về thu nhập từng bước được thu hẹp.
- Để các chính sách cải cách có thể đi vào đời sống và mang lại hiệu quả như kỳ vọng, Nhà nước và các cơ quan chức năng cần thực hiện những giải pháp nào, thưa ông?
- Cải cách chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội cần quyết tâm chính trị rất cao và sự đồng lòng của cả hệ thống chính trị và xã hội. Việc thực hiện chính sách cải cách tiền lương cần được thực hiện đồng bộ với quá trình đổi mới, sắp xếp, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Các cơ quan, đơn vị, tổ chức tiếp tục xây dựng và hoàn thiện danh mục vị trí việc làm, bản mô tả công việc, xác định khung năng lực theo từng vị trí việc làm, tinh giản biên chế…
Đối với chính sách cải cách bảo hiểm xã hội, Nhà nước nên có quy định phù hợp để giảm tình trạng hưởng bảo hiểm xã hội một lần; sửa đổi các quy định để khuyến khích người lao động tham gia bảo hiểm xã hội dài hơn; nghiên cứu điều chỉnh tỷ lệ đóng vào Quỹ Bảo hiểm xã hội theo hướng hài hòa quyền lợi giữa người sử dụng lao động và người lao động. Việc điều chỉnh lương hưu xã hội nên căn cứ vào khả năng cân đối của ngân sách nhà nước; lương hưu cơ bản nên được điều chỉnh dựa trên tốc độ tăng giá tiêu dùng, khả năng của Quỹ Bảo hiểm xã hội và ngân sách. Vấn đề tăng tuổi nghỉ hưu cần được thực hiện theo lộ trình phù hợp với các yếu tố tăng trưởng kinh tế, giải quyết bài toán việc làm và thất nghiệp… Chỉ có như vậy, cải cách mới thành công.
- Trân trọng cảm ơn ông!
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.