(HNM) - Bão lụt, hạn hán, sạt lở đê… đang ngày càng diễn biến phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, an ninh lương thực và đời sống dân sinh. Hội nghị quy hoạch tổng thể thủy lợi Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) trong điều kiện biến đổi khí hậu (BĐKH) và nước biển dâng vừa được Tổng cục Thủy lợi và Viện Quy hoạch Thủy lợi tổ chức, đưa ra nhiều giải pháp tháo gỡ thực trạng này, đặc biệt là các công trình thủy lợi Hà Nội.
ĐBSH hạn lắm, lụt nhiều
Hệ thống đê sông Hồng, sông Thái Bình với chiều dài gần 2.400km, chiều cao phổ biến 6-8m, nhiều nơi chiều cao lên tới 11m. Theo Viện Quy hoạch Thủy lợi, các tuyến đê thuộc hệ thống sông Hồng phải bảo đảm an toàn khi mực nước lũ thiết kế tại Hà Nội là 13,1m. Nhưng, hiện nay so với tiêu chuẩn thiết kế, vẫn còn 80km đê thấp từ 0,4-0,7m, nhiều đoạn mặt đê chưa được rải cấp phối và bê tông hóa.
Ông Đào Ngọc Tuấn, Trưởng phòng Quy hoạch các lưu vực sông Bắc bộ (Viện Quy hoạch Thủy lợi) cho biết, hiện nay hiện tượng xói lở mạnh và phức tạp xảy ra phổ biến ở tất cả các lưu vực sông Bắc bộ do nhiều nguyên nhân như: rừng đầu nguồn bị phá hoại làm thay đổi chế độ thủy văn và thủy lực của dòng chảy, việc điều tiết hồ Hòa Bình làm mực nước vùng hạ du thay đổi đột ngột. Ông Phan Đình Đại, nguyên Phó Tổng Giám đốc Công ty sông Đà nhấn mạnh, từ năm 2004 đến nay, mực nước sông Hồng xuống thấp kỷ lục, các hồ thủy điện luôn trong tình trạng thiếu nước, nước tưới phục vụ nông nghiệp càng khó khăn. Ngày 8-11-2009, mực nước sông Hồng đo được tại Hà Nội xuống dưới 0,76m, thấp nhất trong vòng 107 năm qua khiến tàu thuyền mắc cạn, sản xuất nông nghiệp đình đốn vì thiếu nước. Và gần đây nhất vào ngày 30-10-2010, mực nước sông Hồng đo tại Hà Nội chỉ còn 1,34m, khiến lòng sông trơ đáy. Theo Tổng cục Thủy lợi, hiện chỉ có 69% diện tích nông nghiệp vùng ĐBSH đủ nước tưới thường xuyên, còn khoảng 273.701ha tưới bấp bênh và phụ thuộc thời tiết.
Giáo sư Đỗ Tất Tuyên, chuyên gia nghiên cứu sông Hồng cho rằng, ngoài yếu tố hạn hán gia tăng thì vùng ĐBSH đang phải đối mặt với tình trạng nước biển dâng và xâm nhập mặt. ĐBSH hiện có khoảng 55 hệ thống công trình thủy nông, thủy lợi bảo đảm tưới cho 765.000ha, tiêu khoảng 510.000ha. Tuy nhiên, các công trình tiêu nước vùng ven biển hầu hết đều là hệ thống tiêu tự chảy nên khi nước biển dâng lên, tiêu tự chảy sẽ khó khăn, diện tích và thời gian ngập úng tăng lên tại nhiều khu vực. Đối với hệ thống đê sông, đê bao ven biển và bờ bao, mực nước biển dâng cao làm cho khả năng tiêu thoát nước ra biển giảm khiến mực nước các con sông dâng lên, kết hợp với sự gia tăng dòng chảy lũ từ thượng nguồn sẽ làm cho đỉnh lũ tăng thêm, uy hiếp sự an toàn của các tuyến đê sông ở các tỉnh phía Bắc.
Giải pháp nào?
Theo Viện Quy hoạch Thủy lợi, đến năm 2070 tổng lượng dòng chảy mùa cạn kiệt ở lưu vực sông Hồng giảm 19% và mùa lũ mực nước tại Hà Nội có thể đạt cao trình +13,24 xấp xỉ cao trình đỉnh đê hiện nay +13,40. Điều đó có nghĩa là khả năng lũ cao trong mùa mưa và cạn kiệt trong mùa khô đều trở nên khắc nghiệt hơn. Chế độ mưa thay đổi cùng với quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa dẫn đến nhu cầu tiêu dùng nước gia tăng đột biến, khiến nhiều hệ thống thủy lợi không đáp ứng được yêu cầu tiêu, cấp nước. Cùng với tác động của biến đổi khí hậu, nguồn cung cấp nước sạch sẽ trở nên khan hiếm. Hà Nội cũng không nằm ngoài tình trạng trên. Theo Bộ NN&PTNT, Bộ đã hoàn thiện quy hoạch tiêu thoát nước cho hệ thống sông Nhuệ, trong đó có Hà Nội theo Quyết định số 937/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Để giảm úng ngập cho thành phố, Bộ NN&PTNT đề xuất xây dựng mới cống, trạm bơm Liên Mạc làm nhiệm vụ tưới tiêu kết hợp (170m3/s) và tiếp nước cải thiện môi trường sông Nhuệ; xây dựng mới các trạm bơm: Nam Thăng Long (9m3/s), Yên Sở II (45m3/s), Yên Sở III (55m3/s), Đông Mỹ (35m3/s), Yên Nghĩa (120m3/s), Yên Thái (54m3/s), Đào Nguyên (15m3/s).
Dự kiến, dự án quy hoạch tổng thể thủy lợi ĐBSH trong điều kiện BĐKH và nước biển dâng sẽ cần gần 294 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư. Ông Bùi Nam Sách, Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi và các chuyên gia thủy lợi cho rằng, vấn đề mấu chốt mang tính chiến lược của quy hoạch thủy lợi ĐBSH là phải bảo đảm an ninh dòng chảy. Để làm được điều này phải chú trọng bảo vệ rừng đầu nguồn và xây dựng được các hồ chứa nước trên thượng nguồn các dòng sông nhằm cắt lũ trong mùa mưa và tích trữ, ổn định cấp nước cho mùa khô. Song song với đó là phải nâng cấp hệ thống đê sông để bảo đảm an toàn cho vùng hạ du. Tại các cửa sông và tỉnh ven biển như Nam Định, Thái Bình... phải xây dựng hệ thống cống, đập để chống nước biển dâng và xâm ngập mặn; nâng cấp và hoàn thiện đê biển và các cống dưới đê; dọc ven biển cần phải bổ sung trồng thêm rừng ngập mặn. Một giải pháp cần thiết được ông Đào Xuân Học, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT và các nhà khoa học đưa ra là cần đầu tư xây mới, nâng cấp, hiện đại hóa các công trình thủy lợi như hồ, đập, trạm bơm tưới, tiêu, các cống trên địa bàn các tỉnh ĐBSH. Theo đó, vùng ĐBSH sẽ phải nâng cấp và xây mới 272 hồ đập, 572 trạm bơm... để cung cấp nước cho 398.000ha đất cần tưới; nâng cấp 398 trạm bơm, cống tiêu và xây mới 143 công trình để bảo đảm tiêu cho 1.162.160ha.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.