(HNM) - Xe con của Báo Gia Lai dừng lại trước con dốc dựng đứng. "Chịu rồi, các anh phải đi bộ tiếp thôi", bác tài nói rất áy náy. Nắng nóng làm xộc bụi trên đường, lên rồi lại xuống, người lúc nào cũng như thiếu nước. Những con rẫy vừa qua mùa đốt đen thủi hun nốt chút ẩm ướt trong không gian lơ lửng tro than. Nhưng khi cổng làng hiện ra, chúng tôi biết ngay mình đã không phí công chút nào. Ngôi làng còn năm "linh hồn"
Kon Sơ Lah cách trung tâm xã Hà Tây (huyện Chư Pah) bảy cây số, gọi là "làng cũ", vì dân đã chuyển ra nơi mới từ năm 2002. Định cư, nhưng nơi canh tác vẫn như cũ, nên người ta vẫn đi về làm rẫy, chăm gà lợn. Một ngôi làng Ba Na điển hình. Nghĩa là còn cổ thụ thả bóng, bến nước, năm "giọt nước" dẫn từ khe về, vườn trồng rau, cà đắng, khu nhà mồ. Năm chục nếp nhà tranh sàn gỗ, vách thưng tre nứa hay trát đất trộn rơm hướng về ngôi nhà rông mái vút lên trời xanh như đàn gà con quây quần quanh mẹ. Như một "bức sắp đặt" có ý tưởng chặt chẽ, nhưng lại nguyên sơ, sống động, nó gợi lên những cảm giác khó tưởng. Thế mà cách nay hơn chục năm, đoàn làm phim tài liệu "Tây Nguyên" của Nhà văn Nguyên Ngọc phải kêu trời vì không kiếm được một ngôi làng Ba Na nguyên bản; chỗ nào cũng chen vào những mái tôn, nhà xây.
Một ngôi làng Ba Na vắng vẻ. |
Chúng tôi tha thủi dưới bóng xoài, mít, tha hồ ghé mắt vào vách liếp. Tiếng quả non rụng càng làm tăng vẻ hoang vắng. Có cảm giác như thời chiến tranh, làng lên rừng tránh một trận càn rồi trở về, sắp trở về chăng? Thật thì có, nhưng là để đưa tiễn ai đó về chốn vĩnh viễn với thần linh. Ngôi nhà rông vững chãi lợp tranh dày cả gang tay mát mẻ, bên trong có bếp lửa lạnh, vương vãi tấm chăn, quả bầu nước, ché rượu khô khốc. Bên cạnh là nhà nguyện treo trống lớn, bàn thờ Chúa thật đơn sơ như đức tin chân phác của những con người từng sống nơi đây. Giờ thì còn lại năm người, gọi là năm "linh hồn" vì người "trẻ" nhất cũng đã ngoại bảy mươi. Không biết tiếng Ba Na, rất khó "phỏng vấn", rút cục chúng tôi vẫn biết được tên họ, là các bôk (ông) Hnhil, Chik, Chưng, vợ chồng Kơch, Dyơi. Ở đây cả đời rồi, chết đây thôi, họ không thể "thích nghi" nữa. Chiều xuống, năm già sẽ quây quanh nhà nguyện. Quây quanh thôi, chắc gì đã trèo lên sàn được cả. Có lẽ lúc đó chỉ còn những linh hồn "bản thể".
Bok Hnhil đã gần trăm tuổi cười trơ lợi, hồ hởi đón khách lên sàn, nhắc đi nhắc lại một lời khi nhận chút quà mọn, chắc là cảm ơn. Bok Chưng quấy nồi lá sắn thả vài con cá hong khô trên bếp, thả vào cả thìa muối to tướng. Bập bẹ tiếng Kinh, già kể đi lính cho chế độ cũ, đóng ở Kon Tum, con trai ngoài làng mới vẫn về thăm khi đi rẫy, cháu thì ít khi lắm. Hỏi thế một mình buồn không, sao không ra làng mới, chỉ thấy lầm bầm tiếng Ba Na. Bao thuốc được tặng, già chỉ hút một điếu "còn để dành cho con".
Làng Kon Sơ Lah di ra chỗ mới, quy hoạch kiểu bàn cờ, với đầy đủ hạ tầng, điện đường trường trạm, nhà rông… Chỗ này chẳng theo tôn giáo du nhập nên nghi lễ cúng bái, cồng chiêng không bị rơi rụng mấy. Dân giàu lên nhờ cà phê, bời lời, nhưng so với làng cũ không ấm áp bằng. Phương Duyên, phóng viên Báo Gia Lai kể lời tiếc rẻ của Chủ tịch xã Đinh Sưk, giá như đường lớn của Công ty Cao su Chư Pah (có năm 2008) làm sớm hơn thì không phải dời làng. Chủ trương định canh định cư là rất đúng đắn, nhưng khi áp dụng cụ thể lại nảy ra những vấn đề không nhỏ: xây dựng hạ tầng cho khu mới so với đưa điện đường trường trạm vào từng thôn đang có nguyên, cách nào không tốn kém hơn? Và đồng bào bản địa du canh hay luân canh? Làm những ngôi nhà đẹp, chắc chắn, ngôi làng đẹp theo ý chủ đầu tư, sao họ còn ra nhà rẫy ở?
Dời làng Kon Sơ Lah cũ ra đường cái lớn, chúng tôi may mắn gặp nhiều bóng cây Kơ nia, một biểu tượng của Tây Nguyên. Câu chuyện về nhà rông, cũng là một biểu tượng, nghe rất buồn. Làng nào cũng có nhà rông, phải dựng lấy để thể hiện sự khéo léo, giỏi giang của mình, không dùng thợ chuyên nghiệp. Cả ngàn làng ở Gia Lai năm 2004 chỉ còn 524 ngôi mà cũng không đầy đủ chiêng, ché, vũ khí, chỗ cất vật thiêng. Thay vào đấy là nhà rông văn hóa, thường do doanh nghiệp, dự án xây, bê tông đá hoa mái tôn cùng bàn ghế "kiểu hội trường". Nóng kinh người đã đành, nó không có linh hồn, không được làm lễ, nên nhiều chỗ đóng im ỉm. Người ta cứ rượu cần, cồng chiêng trong ngôi cũ nhỏ bé, xập xệ, ám khói nhưng tổ tiên ngự trị. Họa sĩ Xu Man đã vẽ cho nhà rông văn hóa quê ông rồi không quay lại đấy lần nào. Tức là nhà rông nói riêng, di sản văn hóa nói chung, đâu phải thứ cho tặng được, có tiền không phải cứ lôi được con người "xềnh xệch đến văn minh" được.
Đất sống nào cho di sản?
Sử thi, trường ca, bài cúng, xoang (múa)… là những di sản hết sức quý báu. Sinh ra, phát triển trong ánh lửa bập bùng, nhà sàn cọt kẹt, giờ đem ra đường phố, các liên hoan, hội diễn, trình bày cho khách du lịch xem dưới ánh đèn điện sáng choang, thì chưa thể yên tâm "cá" đã có "nước". Mà những hoạt động văn nghệ, lễ hội ấy thường rất tốn kém so với việc lo "nước". Đã có làng "dấy lên" phong trào đặt tên con theo phim Hàn Quốc.
Ông Kror Krơn, nguyên UV TƯ Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai có một đánh giá tích cực: "Việc dạy chữ Gia Rai trong bậc tiểu học mấy năm gần đây khiến tục đa thần giáo (cúng cây thiêng, bến nước, đất đai, sông suối) trở lại, đỡ "đất trống" cho tôn giáo khác vào". Nhưng văn hóa, cũng như tri thức sống, cần một quá trình xây đắp dầy dặn, công phu, với mục đích riêng.
Đàn voi chẳng hạn. Sau năm 1975, cả tỉnh Đăk Lăk có hơn 500 con, nay còn 50 mà cũng sắp "tiệt" vì lệnh cấm săn voi rừng và bị vắt kiệt sức cho du lịch lễ hội. Voi chỉ giao phối, đẻ trong rừng, nuôi ở nhà thì chịu. Trước đồng bào thường săn voi con, bị cấm thì chả thể tự vệ khi đàn voi rừng hung dữ kéo về. Nghe nói nhà sử học Dương Trung Quốc đã tổ chức chụp ảnh 50 ông voi "cuối cùng" này, sẽ làm hội thảo xem có cứu vãn được gì…
Cồng chiêng ở Đăk Lăk có 10.000 bộ năm 1975, tới 1994 còn 4.800, con số năm 2008 là 2.600, giờ chắc chưa được 1.000. Sang Đăk Nông hay Gia Lai tình hình dường như đỡ hơn, phụ thuộc vào tín ngưỡng.
Sử thi "thoi thóp", nói như Thạc sĩ Nguyễn Quang Tuệ ở Sở VH,TT&DL Gia Lai, chuyên gia về loại hình này. Nghệ nhân đang vắng dần, còn thì người nghe cũng ít. Cũng có lớp mở ra nhưng "thầy dạy chúng nó cứ nhắn tin". Sách cũng in ra rồi nhưng chưa "chuẩn" (dù đã quy định chuẩn) vì nhiều nhóm chữ địa phương quá. Trung ương vừa ấn hành bộ sử thi đồ sộ thật, nhưng chắc cho sinh viên, nhà nghiên cứu là chính. Ở cấp tỉnh, như nơi ông Nguyễn Quang Tuệ công tác, phòng nghiệp vụ lo luôn cấp phép quảng cáo, karaoke, biểu diễn nghệ thuật, làm báo cáo… nhà nghiên cứu chả còn sức đâu mà sưu tầm, bảo quản, dịch, công bố… nữa.
Đôi lời về hạnh phúc
Xin kết thúc loạt bài về các di sản văn hóa đang "bay" bằng một hình ảnh. Đi xa đâu đó, công việc hoặc du lịch, gặp đàn bà vùng cao đeo gùi nặng lầm lụi leo mãi lên cao, ta thường xuất hiện cảm giác thương xót: "Họ nghèo quá! Khổ thế! Mang nặng thế thì người cọc đi là phải!". Lên thăm nhà họ với tấm lòng ấy, kèm quà cáp, ta lại nghĩ tiếp: "Nên mang dân xuống vùng dưới đỡ vất hơn mà lại có ánh sáng văn minh, để miền ngược tiến kịp miền xuôi như miền xuôi đang cố tiến kịp đô thị…".
Đấy là những ý nghĩ tử tế. Nhưng nếu ta tìm hiểu tiếp phong tục tập quán nơi ấy, rất có thể những câu khác sẽ xuất hiện. Chẳng hạn ngôi nhà chình tường ám khói, "tối bẩn" rất có lý trong sinh hoạt và thờ cúng, thờ cúng ông bà họ chứ không phải ông bà ta. Và họ, leo núi phát nương rồi thảnh thơi uống rượu, nhảy múa ca hát bên đống lửa cả ngàn năm nay, vẫn thấy hài lòng đấy chứ, có tự thương xót và tủi thân vì mình không bằng ai đâu.
Sẽ là không tưởng nếu muốn kéo lùi lại như cũ, hay "đóng băng" cuộc sống. Nhưng hạnh phúc là cái mình tự cảm thấy vừa lòng với gì đang có, chứ không phải cái người khác hướng cho mình, muốn mình theo. Quan niệm có vẻ "hiện sinh" này, đem so ra thì chưa chắc ai hạnh phúc hơn ai. Những đô thị chật cứng, ô nhiễm, xe chen nhau chục phân một, những quan hệ phải chi li đong đếm… rất chi tạo stress, khiến trầm cảm hoặc ngược lại, tăng động quá. Một điều tra xã hội học cho thấy nhiều người hai ba nhà, bốn năm ô tô, chục "ô sin"... không cảm thấy "hoàn toàn hạnh phúc". Ta thường nhìn vào mặt tiêu cực của những nơi kém phát triển mà ít chăm chú vào mặt tiêu cực của vùng phát triển. Biết tiếng Anh, giỏi vi tính mới chỉ là văn minh chứ chưa phải văn hóa, càng chưa phải văn hiến. Khi quan niệm "Văn hóa là sự khác biệt", UNESCO rất quan tâm đến tính đa dạng.
"Thế giới", tức người Âu Mỹ, đã đặt ra chỉ số phát triển để đo chất lượng cuộc sống, căn cứ chủ yếu vào tài sản, tiện nghi đang có. Nay thì lại có thêm chỉ số phát triển nhân văn, đánh giá cao sự hài hòa, tự chọn lựa cách sống của mình. Nhìn vào đây, có lẽ ta nên ngẫm lại sự thương xót cao thượng của mình với những đàn bà leo núi.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.