Chiều 14-12, Cục Di sản Văn hoá (Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) tổ chức hội nghị - hội thảo “65 năm sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá" tại Khu di sản Hoàng thành Thăng Long. Hội thảo có sự tham gia của các nhà khoa học, lịch sử, chuyên gia trong lĩnh vực di sản, văn hoá Việt Nam.
Di sản văn hoá đóng góp cho phát triển xã hội
Phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch Hoàng Đạo Cương cho biết, bảo tồn di sản văn hóa là lĩnh vực hoạt động văn hóa khác biệt so với các lĩnh vực khác đã được hình thành và phát triển trước đó. Di sản văn hóa là sản phẩm và chứng nhân lịch sử, với giá trị trước tiên là một nguồn sử liệu đích thực và chính xác hơn những gì được ghi chép trên giấy. Vài chục năm gần đây, bên cạnh di sản văn hóa vật chất, còn hiện hữu một di sản thứ hai của dân tộc, đó là di sản văn hóa tinh thần, cũng cần được bảo lưu và trao truyền.
“Việc tổ chức hội thảo lần này nhằm tập trung vào công tác nghiên cứu, tham mưu, hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách về di sản văn hóa, đặc biệt là xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Di sản văn hóa năm 2024, tạo thành hành lang pháp lý thuận lợi để công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa được triển khai hiệu quả trên thực tế; tháo gỡ các rào cản chính sách, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển, khai thác các nguồn tài nguyên văn hóa, khuyến khích sự tham gia tích cực của xã hội, tạo động lực phát huy sức mạnh mềm, nội sinh của văn hóa để phát triển kinh tế - xã hội”, Thứ trưởng Hoàng Đạo Cương nêu.
Thông tin về hoạt động bảo vệ và phát huy di sản trong 65 năm qua, TS Lê Thị Thu Hiền, Cục trưởng Cục Di sản văn hoá cho biết, kể từ khi Sắc lệnh số 65/SL được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, cùng với tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá ngày càng được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta quan tâm, coi trọng, để lại nhiều dấu ấn và thành quả.
Hiện nay, trên cả nước có hơn 40.000 di tích và khoảng gần 70.000 di sản văn hóa phi vật thể được kiểm kê, trong đó có: 34 di sản được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) ghi danh (gồm 8 Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, 16 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh và 10 di sản tư liệu được Chương trình Ký ức Thế giới của UNESCO ghi danh); 138 di tích quốc gia đặc biệt được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng, 3.653 di tích quốc gia… Toàn quốc có 203 bảo tàng gồm 127 bảo tàng công lập và 76 bảo tàng ngoài công lập, lưu giữ và trưng bày trên 4 triệu tài liệu hiện vật, trong đó có nhiều sưu tập, hiện vật đặc biệt quý hiếm.
“Trên phương diện quốc tế, Việt Nam đã khẳng định là một trong những nước thành viên tích cực tham gia các Công ước của tổ chức UNESCO, đóng góp kinh nghiệm cũng như thể hiện nỗ lực cho việc bảo tồn di sản văn hóa của nhân loại. Di sản văn hóa đã và đang đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, xã hội của các địa phương và vào sự phát triển chung của đất nước”, bà Lê Thị Thu Hiền nêu.
Bảo tồn, phát huy phù hợp với thời đại 4.0
Bên cạnh những thành tựu nổi bật, công tác bảo tồn và phát huy di sản vẫn gặp không ít khó khăn, thách thức. Tại hội nghị, các nhà khoa học, chuyên gia nhận định, cơ chế chính sách cho hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa cần hoàn thiện; nhận thức xã hội về di sản văn hóa vẫn chưa đúng mức; nguồn kinh phí đầu tư cho cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn để đáp ứng nhu cầu thực tế chưa tương xứng. Đặc biệt, trong thời đại công nghệ số, việc quản lý, phát huy di sản văn hoá gặp không ít thách thức.
Góp ý cho công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hoá trong thời đại công nghệ số, GS. TS Nguyễn Quốc Hùng, nguyên Phó Cục trưởng Cục Di sản văn hóa cho rằng, cần tạo điều kiện cho cộng đồng tham gia nhiều hơn vào các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di tích ở địa phương; tăng cường đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của thời đại 4.0.
Còn theo TS Lê Thị Minh Lý, Phó Chủ tịch Hội Di sản văn hóa Việt Nam, việc ứng dụng công nghệ là rất cần thiết nhưng cũng cần phải lưu ý đến giá trị nguyên gốc, trực quan. “Cần nghiên cứu việc số hoá đến nơi đến chốn để tránh lãng phí. Việc quan trọng là đào tạo con người để nâng cao trình độ bảo quản, trưng bày hiện vật tại các di tích, bảo tàng cũng như bảo tồn các loại hình di sản khác”, TS Lê Thị Minh Lý gợi ý.
Ở góc độ bảo tồn, phát huy giá trị những di sản được UNESCO ghi danh, đặc biệt là các di sản tư liệu, TS Vũ Thị Minh Hương, Phó Chủ tịch Ủy ban Ký ức thế giới UNESCO Khu vực châu Á-Thái Bình Dương cho rằng, việc số hoá những di sản tư liệu là cần thiết vì sẽ giúp cho việc quảng bá tới đông đảo công chúng đạt hiệu quả. “Đề nghị Cục Di sản văn hóa cần có hướng dẫn, đào tạo cho các địa phương kiến thức đánh giá, xếp loại các di sản tại địa phương, từ đó lập danh sách từng loại di sản để có lộ trình bảo tồn, phát huy giá trị, ghi danh hiệu quả”, TS Vũ Thị Minh Hương cho biết.
Luật Di sản văn hoá (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua, đây được xem là dấu ấn lớn của hoạt động bảo tồn và phát huy di sản trong 65 năm qua. Các chuyên gia cho rằng, với nhiều điều được sửa đổi, công tác bảo tồn và phát huy di sản sẽ đạt được hiệu quả hơn trong thời gian tới.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.