Trên chuyến bay nội địa, cô tiếp viên hàng không duyên dáng trong tà áo dài truyền thống tươi tắn mời vị khách tóc vàng, mắt xanh, mũi lõ tách trà Việt. Ông khách nhã nhặn từ chối và yêu cầu được uống Lipton. Sau nụ cười cũng nhã nhặn của cô tiếp viên, một tách trà mang thương hiệu là họ của ngài Thomas Lipton, cha đẻ của thứ sản phẩm đã nổi tiếng khắp hoàn cầu, được bưng ra.
Đóng gói chè xuất khẩu tại Cty chè cổ phần Kim Anh
Đây là câu chuyện có thật, thật 100%, do chính một quan chức của Tổng Công ty Chè Việt Nam kể lại. Nghe qua cũng đã thấy rầu lòng cho quốc gia có truyền thống hơn nghìn năm uống trà, hơn trăm năm sản xuất chè theo kiểu công nghiệp, lại xếp hàng top 10 cường quốc chè.
Rất nhiều “ngài” Lipton!
Khoảng mươi năm trước, trà Lipton nhãn vàng bắt đầu xuất hiện trên thị trường Việt Nam. Cũng là trà mạn nhưng Lipton được chế biến hoàn toàn khác với thứ trà mạn truyền thống của người Việt. Trà mạn truyền thống của người Việt là trà xanh còn Lipton là trà đen, thức uống truyền thống của dân châu Âu, Nam Mỹ và nhiều quốc gia vùng Nam á. ấy thế mà Lipton lại sống được, sống khoẻ trên thị trường vốn xa lạ với trà đen túi lọc. Người Việt Nam nhận thấy ở Lipton không chỉ sự tiện dụng trong pha chế mà dường như cả sự sang trọng. Vì thế, nhiều gia đình thành thị thường dùng Lipton vào những ngày lễ, tết hoặc khi có khách. Một túi trà Lipton nhiều khi được pha đến lần nước thứ hai, thứ ba mới bỏ. Khi pha, bỏ ít đường, thêm vài lát chanh vào là người uống có ngay một tách trà thơm dịu hấp dẫn.
Ngài Thomas Lipton qua đời đã lâu nhưng sản phẩm mang họ ngài vẫn đang được nhắc đến liên tục bên ấm trà của người Việt. Thương hiệu mang họ ngài cũng ngày một nhiều hơn nơi các hàng quán, đặc biệt ở khu vực đô thị mà Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng hay TP Hồ Chí Minh là những ví dụ. Không một quán giải khát nào, từ lớn chí nhỏ, lại không có mặt loại trà này. Các quán giải khát rực rỡ màu vàng của quảng cáo Lipton, các đại lí giăng đầy quảng cáo Lipton. Trà Lipton tồn tại và ngự trị trên thị trường Việt Nam lâu như thế chắc hẳn không bởi tâm lý sính ngoại, tò mò, thích cái mới của người dân. Bây giờ, “ngài” Lipton bung ra với nào Lipton chanh, Lipton gì gì nữa. Dường như khát vọng của “ngài” Lipton chưa dừng lại ở đó mà còn vươn ra nhiều tỉnh thành, trong đó có cả những nơi nổi tiếng với chè xanh như Thái Nguyên, Hà Giang, Đà Lạt (Lâm Đồng)... “Ngài” tham gia nhiều chương trình nhằm tuyên truyền, quảng bá tên tuổi, mấy năm trở lại đây rầm rĩ với một giải bóng chuyền bãi biển. Giống như một số hãng kem đánh răng, “ngài” rất khôn khéo khi nhằm vào đối tượng trẻ. Sự thật là ở các quán giải khát, nhiều cô gái, chàng trai nhấp cà phê thấy đắng, nước chanh quá bình thường, sinh tố không còn mới lạ thế là họ chỉ còn sự lựa chọn, đó là “ngài”.
Sau Lipton là cơn sốt Dilmah, cùng loại trà đen túi lọc, phổ biến là Dilmah hương hoa quả, của Ceylon (Xri-lan-ca) - một quốc gia chè. Xuất hiện chưa lâu, Dilmah đã hiện diện bên bàn trà của nhiều gia đình, nhiều quán giải khát, siêu thị. Mà giá một hộp Dilmah hồi ra mắt nào có rẻ. Cũng như Lipton, Dilmah là sự lựa chọn của lớp trẻ. Những hương dâu, hương táo, bạc hà... gây khó chịu cho người nghiện trà lớn tuổi lại là sự thích thú của đám thanh niên. Tuy vào sau “ngài” Lipton nhưng Dilmah hiện chiếm thị phần đáng kể. Đã có hẳn một giải bóng đá mang tên giải Dilmah. Đồng hương với Dilmah là trà Qualitea, chiết tự tiếng Anh Qualitea có nghĩa trà hảo hạng. Đa dạng như Dilmah, Qualitea hấp dẫn bởi nhiều cái tên nghe lạ lẫm và sang trọng: Oloong, bá tước, rum…
Xưa, trà và thú thưởng trà đã đi vào thơ văn của nhiều bậc tao nhân mặc khách. Nguyễn Trãi yêu trà, mê trà mà làm thơ về trà. Gần ta, cụ Nguyễn Tuân cũng yêu trà, mê trà mà viết mấy cái truyện đẹp mê tơi về cái thú thưởng trà trong Vang bóng một thời. Người xưa uống trà kĩ lưỡng, tỉ mỉ và cầu kỳ: Trà phải trà thửa, nước phải nước mưa đọng lại trên lá sen... Sự xuất hiện của Lipton, Dilmah, Qualitea… hình thành một nếp thưởng trà mới, không phải lối thưởng trà truyền thống tự bao đời với lỉnh kỉnh ấm đĩa tách chén, và khiến văn hoá trà Việt thêm phong phú. Đến giờ, kể như những thương hiệu này đã thực sự chiếm lĩnh thị trường đô thị. Có hai lí do khả dĩ có thể lí giải cho sự thắng thế này. Thứ nhất, trong thời buổi công nghiệp hóa, người dân ngày càng ít thời giờ hơn nên cần sự tiện dụng. Thứhai, sự trống vắng một thứ thức uống dành cho giới trẻ chính là kẽ hở, một khoảng trống thì đúng hơn. Uống lâu thành quen và bây giờ Lipton trở thành thứ nước uống bình dân nhưng mang lại lợi nhuận rất cao cho các quán giải khát. Câu chuyện trên chuyến bay nội địa tôi kể ra đầu bài viết này không phải trường hợp hi hữu mà ngày càng thường xuyên hơn với chính người tiêu dùng Việt.
Theo tính toán của ông Nguyễn Kim Phong, Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam, lượng chè tiêu thụ trong nước hằng năm lên tới trên 30 nghìn tấn. Cũng cách tính của ông Phong, trung bình mỗi tấn trị giá 13 triệu đồng, vị chi một năm cả nước bỏ ra ngót 400 tỷ đồng, khoảng25 triệu USD, dành cho uống trà. Đấy là chưa tính lượng trà của các hộ sản xuất cá nhân tiêu thụ nằm ngoài tầm tính toán của Hiệp hội. Trong khi đó, cả nước có chừng 640 doanh nghiệp, gần 200 nhãn hiệu chè mà chỉ thu được ngót 400 tỷ đồng doanh thu nội địa, chênh lệch không đáng kể với doanh thu của một vài công ty sản xuất chè mang các thương hiệu trên. “Ngài Lipton” cùng Dilmah, Qualitea đã qua mặt gần 200 nhãn hiệu chè tồn tại lâu đời để trở thành thương hiệu được nhiều người biết đến nhất ở Việt Nam hiện nay.Ngành Chè có cảm thấy xót lòng ?
Mải mê chuông thỉnh xứ người
Việt Nam có truyền thống uống trà lâu đời (nhắc lại điều này có vẻ hơi thừa), năm 2005 sẽ kỉ niệm 115 năm sản xuất chè theo kiểu công nghiệp. Theo đánh giá của Hiệp hội Chè, hiện Việt Nam là một trong mười cường quốc chè thế giới- top 10- và trong thời gian tới, vị trí này tiếp tục được cảithiện. Chè Việt Nam đã xuất hiện tại nhiều thị trường lớn như Nga, I-rắc, Pa-ki-xtan, Anh, Đức… Hết tháng 10- 2004, tổng sản lượng chè xuất khẩu đã đạt 83 nghìn tấn với kim ngạch 79 triệu USD (chỉ gấp hơn ba lần giá trị sản lượng chè nội tiêu). Tuy nhiên, chè Việt Nam xuất khẩu đều dưới dạng sơ chế- nghĩa là hàng thô. Vì thế, ngay cả ở những thị trường truyền thống như: Nga, I- rắc, Đài Loan, người uống trà vẫn không mảy may biết họ đã uống trà Việt. Vẫn ông Nguyễn Kim Phong: - Ngành Chè không phải không đủ năng lực xuất khẩu chè thành phẩm. Trên thực tế, chè thành phẩm đã được xuất khẩu cách đây cả chục năm rồi, song chè thành phẩm thường bị đánh thuế nhập khẩu rất cao, có khi lên tới 40%. Vì thế, nhiều doanh nghiệp chè… chọn con đường chắc ăn là xuất thô. Anh cả ngành Chè cả nước, TCty chè Việt Nam (Vinatea) cũng xuất khẩu gần như 100% chè thô, tỉ lệ thành phẩm rất thấp. Một cán bộ Vinatea tiết lộ những lí do khác, không chỉ chuyện thuế má: “Tại thị trường nước ngoài, hầu hết doanh nghiệp không chịu nổi chi phí tuyên truyền, quảng bá. Hơn nữa, uy tín chè thành phẩm chưa được thừa nhận. Ngoài ra, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm cũng còn bị nghi ngờ”.
Mới đây, một chiến dịch xúc tiến và quảng bá được cho là khá rầm rộ của Vinatea cho trà thành phẩm đã được triển khai tại Nga. Hiệu quả kinh tế đến đâu chưa rõ nhưng trước mắt, theo một cán bộ của Tổng Công ty này, chi phí… lớn quá !
Mải mê chuông thỉnh xứ người cũng cần thiết nhưng bỏ bẵng thị trường nội địa ngành Chè có xót không ?
Không hẳn thế hay không đến mức như thế ?
Có một doanh nghiệp nhận thấy thị trường trà túi như Lipton và Dilmah tiêu thụ tốt ở Việt Nam đã sản xuất theo kiểu này và cho ra đời thương hiệu Cozy, thương hiệu 100% Việt Nam. Theo những người có trách nhiệm của Cty, Cozy đã và đang được người tiêu dùng đón nhận. Tương lai của Cozy khá sáng sủa. Nhưng vẫn chỉ có một Cozy.
Ngành Chè đang đánh mất thị trường trong nước (hay Thị trường nội tiêu đã bị các thương hiệu trà nước ngoài chiếm lĩnh !) ! Khi hỏi về cảnh báo đó, chúng tôi đã mong nhận được những câu trả lời thực tế và thẳng thắn của một vài doanh nghiệp chè nhưng dường như mọi sự chưa đến mức bi quan lắm.
Một quan chức Vinatea cho rằng: Chưa đến mức như vậy. Chúng ta chỉ mất một thị phần không đáng kể, chỉ khoảng nghìn tấn gì đó.
Còn ông Nguyễn Kim Phong: Không hẳn thế ! Dù thương hiệu Lipton, Dilmah hay Qualitea… nhan nhản khắp nơi song cũng chỉ dừng lại ở khối lượng chừng vài chục tấn. Thương hiệu là của nước ngoài song nguyên liệu của ta, nhân công của ta(!). Vả lại, trong thời buổi giao lưu kinh tế này, điều ấy hoàn toàn dễ hiểu(!). Sắp tới chúng ta gia nhập WTO, sẽ còn nhiều tên tuổi nữa tràn vào.
Tuy nhiên, còn nhiều điều các doanh nghiệp chè chưa lường hết được. Chính ông Phong tâm sự: Trước đây, trà Lipton vào được dễ dàng như thế vì bao nhiêu năm trà đen Phú Thọ có ai uống đâu. Thực tế đó hoàn toàn đúng trong thời bao cấp. Trà xanh uống ngọt cổ họng tội gì uống trà đen nhưng khi mở cửa thì suy nghĩ này quả đơn giản.
Câu chuyện xuất khẩu và nội tiêu của chè Việt Nam hệt như chuyện một anh đi buôn chuyến và một anh bán hàng ở nhà. Anh buôn chuyến thu lợi nhuận có nhiều hơn nhưng lại vất vả, phải lao tâm khổ tứ hơn nhiều. Anh nào sướng còn tùy theo cách nghĩ của mỗi người. Nhưng rõ ràng nếu đem so sánh, chè thành phẩm dù bán trong nước vẫn cao hơn chè thô xuất khẩu gấp nhiều lần. Trong lúc hàng trăm doanh nghiệp chè tất bật chài lưới, mang thuyền ra biển Đông đánh cá thì ở chính ao nhà những người từ xa tới lại hồ hởi mà đánh giậm ngon ơ.
Bây giờ, lớp trẻ, công chức, nhân viên văn phòng đã “Hello, Mr Lipton!” Tương lai “Hello, Mr Lipton!” sẽ nhiều hơn. Bao giờ trà Việt sẽ được đón nhận, được “Hello...” trên chính quê hương như vậy?
HNM
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.