Các sản phẩm của làng nghề hiện nay không chỉ đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ trong nước mà còn phục vụ cho xuất khẩu.
Tuy nhiên, để không bị loại khỏi cuộc chơi bởi các tiêu chuẩn ngày càng cao của các thị trường nhập khẩu, việc ứng dụng thiết bị tiên tiến vào sản xuất, giảm ô nhiễm môi trường, nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng đã và đang là giải pháp quan trọng vì chúng giúp “xanh hóa” và phát triển bền vững các làng nghề của Hà Nội.
Gắn sản xuất với bảo vệ môi trường
Trước đây, người dân làng nghề truyền thống bún Phú Đô (phường Phú Đô, quận Nam Từ Liêm) phải sống chung với không khí đặc quánh vì ô nhiễm, đường sá làng nghề nhem nhuốc vì phơi than. Thì nay, nhờ nỗ lực chuyển đổi, thông qua áp dụng các công nghệ, thiết bị tiên tiến có hiệu suất sử dụng năng lượng cao, thân thiện với môi trường, đã giúp các cơ sở sản xuất tại đây không chỉ tăng năng suất, mà còn giải quyết được nạn ô nhiễm môi trường.
Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề truyền thống bún Phú Đô Nguyễn Văn Họa cho biết, ngày trước đốt lò bằng than, sản lượng mỗi hộ chỉ đạt 1-2 tạ/ngày, nhưng bây giờ sản lượng đã đạt 1,5-2 tấn/ngày, có cơ sở đạt 3 tấn/ngày nhờ thay thế bằng năng lượng điện.
Tương tự, nhờ "xanh hóa", một số doanh nghiệp mây tre đan ở làng nghề Phú Vinh (xã Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ) đã thu được nhiều lợi ích từ kinh tế đến môi trường. Khi chưa áp dụng sản xuất sạch hơn, doanh nghiệp bị hao hụt tới 10% mây tươi ở khâu luộc, tẩm, thu mua. Hóa chất tổn thất nhiều do hệ thống luộc và tẩm mây làm bằng xi măng không có gia nhiệt. Khi thực hiện sản xuất sạch hơn, lượng nguyên liệu hao hụt giảm mạnh, doanh nghiệp không mất nhiều chi phí, đặc biệt là giảm phát thải ra môi trường.
Đặc biệt phải kể đến làng gốm Bát Tràng. Trước đây, mỗi ngày, làng nghề tiêu thụ khoảng 800 tấn than và thải vào môi trường các loại khí độc hại: CO, SO2, H2S, bụi silic, chất thải rắn... Để giải quyết bài toán phát triển bền vững, các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất làng nghề Bát Tràng đã tích cực tham gia chuyển đổi công nghệ nung gốm từ lò than, lò gas truyền thống sang lò gas hiện đại.
Đến nay, Bát Tràng đã có gần 1.000 hộ sử dụng lò nung gốm bằng khí gas hóa lỏng, góp phần làm giảm phần lớn lượng phế phẩm so với lò than. Đặc biệt, nhờ có hơn 90% các hộ sản xuất gốm sứ chuyển sang sử dụng công nghệ lò gas cải tiến đã giúp giảm tiêu hao năng lượng, giảm tình trạng ô nhiễm môi trường.
Hướng đến phát triển bền vững
Có thể thấy, vai trò của kinh tế làng nghề đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế là không nhỏ. Hiệu quả từ việc sử dụng nhiên liệu thay thế cũng như áp dụng khoa học kỹ thuật trong phát triển bền vững làng nghề đã được minh chứng. Tuy nhiên, để áp dụng rộng rãi cũng còn nhiều rào cản đối với các cơ sở, như điều kiện mặt bằng sản xuất, trình độ kỹ thuật, nguồn vốn…
Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Tòng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu ứng dụng mỹ thuật sản phẩm làng nghề Việt Nam, tình trạng ô nhiễm môi trường làng nghề ở Hà Nội nhiều năm qua đã trở thành một trong những vấn đề nổi cộm.
Thống kê của Sở Công Thương Hà Nội cho thấy, hiện 70% số thiết bị được sử dụng tại các làng nghề là máy móc, trang thiết bị đơn giản. Số máy móc hiện đại chỉ tập trung tại một số làng với những ngành nghề như dệt, may, gốm sứ. Bên cạnh đó, hệ thống xử lý nước thải tại các khu vực làng nghề nhìn chung vẫn chưa được quan tâm đầu tư xây dựng. Do vậy, ô nhiễm môi trường đang trở thành tình trạng chung, là vấn đề nổi cộm của hầu hết các làng nghề ngoại thành Hà Nội và ngày càng có nguy cơ đe dọa nghiêm trọng đến môi trường sống cũng như phát triển sản xuất.
Cũng theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Tòng, ô nhiễm môi trường tại các làng nghề hoàn toàn có thể khắc phục được nếu áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn. Đồng thời, việc "xanh hóa" cũng giúp tăng hiệu quả kinh tế.
Quyền Giám đốc Sở Công Thương Hà Nội Trần Thị Phương Lan cho biết, thời gian qua, thành phố đã triển khai nhiều chương trình, dự án thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, sử dụng năng lượng thay thế để giảm chi phí, cải thiện môi trường làng nghề. Nhờ chuyển đổi sản xuất gắn với bảo vệ môi trường, đời sống của người dân nhiều làng nghề đã được nâng lên.
Đề cập giải pháp bảo vệ môi trường làng nghề, bà Trần Thị Phương Lan cho rằng, cần thiết quy hoạch không gian làng nghề gắn với bảo vệ môi trường, quy hoạch lồng ghép hoạt động du lịch với sản xuất nghề; quy hoạch tập trung theo mô hình các khu công nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn... Nội dung quy hoạch bao gồm quy hoạch lại không gian sản xuất, quy hoạch và xây dựng hệ thống xử lý chất thải; xây dựng các chính sách khuyến khích hỗ trợ tại các làng nghề như giảm thuế, phí đối với cơ sở thực hiện tốt bảo vệ môi trường và các cơ sở có đầu tư bảo vệ môi trường hay hỗ trợ vốn cho các dự án cải thiện môi trường thông qua việc lập quỹ bảo vệ môi trường.
Theo Tiến sĩ Lê Quang Thắng, Viện Nghiên cứu chính sách pháp luật và kinh tế hội nhập (Hiệp hội Làng nghề Việt Nam), để thu hút người dân, doanh nghiệp chuyển đổi sản xuất hướng đến "xanh hóa", Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi, như: Thiết lập mức giá khuyến khích cho các sản phẩm tiết kiệm năng lượng, giảm giá cho các thiết bị để các doanh nghiệp có thể đầu tư vào các giải pháp tiết kiệm năng lượng; đồng thời đưa ra các chính sách khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm như giảm thuế, cung cấp hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp sử dụng năng lượng tiết kiệm.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.