Xã Hoằng Liệt đầu thế kỷ XIX gồm hai thôn (làng) là Tứ Kì (làng Kỳ hay làng Tứ hay Đình Gạch) và Pháp Vân (làng Vân hay Kẻ Vân), thuộc tổng Quang Liệt, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng; từ năm Minh Mạng thứ 12 (1831) thuộc tỉnh Hà Nội, đến năm 1888 thuộc tỉnh Cầu Đơ (năm 1904 đổi thành tỉnh Hà Đông. Thời Thành Thái (1889 - 1907), hai làng Tứ Kỳ và Pháp Vân tách ra thành hai xã độc lập.
Xã Hoằng Liệt đầu thế kỷ XIX gồm hai thôn (làng) là Tứ Kì (làng Kỳ hay làng Tứ hay Đình Gạch) và Pháp Vân (làng Vân hay Kẻ Vân), thuộc tổng Quang Liệt, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng; từ năm Minh Mạng thứ 12 (1831) thuộc tỉnh Hà Nội, đến năm 1888 thuộc tỉnh Cầu Đơ (năm 1904 đổi thành tỉnh Hà Đông. Thời Thành Thái (1889 - 1907), hai làng Tứ Kỳ và Pháp Vân tách ra thành hai xã độc lập.
Sau Cách mạng, Tứ Kỳ, Pháp Vân hợp nhất với các làng Bằng Thượng, Bằng Hạ, Linh Đàm thành xã Hoàng Liệt thuộc quận VI của Hà Nội. Hoà bình lập lại, thuộc huyện Thanh Trì. Từ tháng 11 - 2003, xã Hoàng Liệt được chuyển thành phường, thuộc quận Hoàng Mai.
Tứ Kỳ, Pháp Vân vốn là làng thuần nông. Song dân hai làng biết khai thác thế mạnh của vùng đất sông hồ ven đô, nên đã chuyển dần từ cây lúa sang trồng hoa màu và rau xanh, cung cấp cho Hà Nội, đồng thời phát triển các nghề thủ công như làm bún, bán bún ốc, nghề mộc... Các sản phẩm nổi tiếng nhất là bún của làng Tứ Kỳ, rất dễ nhận biết bởi được gói bằng lá sen xanh từ hồ Linh Đàm. Bún Tứ Kỳ ăn với canh cua, ốc làng Pháp Vân là đặc sản có tiếng của huyện Thanh Trì và cả nội thành Hà Nội. Ca dao cũ :
"Bún ngon, bún mát Tứ Kỳ
Pháp Vân cua ốc đồnthì chẳng ngoa”.
Hiện tại thôn Tứ Kì có ngôi miếu thờ tổ nghề làm bún và nghề làm bún truyền thống này vẫn được duy trì.
Theo các tài liệu Đăng khoa lục, thời phong kiến, xã Hoằng Liệt có ba vị (chưa rõ thuộc làng Pháp Vân hay Tứ Kỳ) đỗ Tiến sĩ. Đó là:
- Nguyễn Đoan Lương: đỗ khoa Nhâm Thìn niên hiệu Hồng Đức đời Vua Lê Thánh Tông (1472).
- Phạm Kính: đỗ khoa Đinh Mùi niên hiệu Vĩnh Định đời Vua Mạc Phúc Nguyên (1547), làm quan Đông các Hiệu thư.
- Nguyễn Quốc Khuê (1714-?): đỗ khoa Mậu Thìn niên hiệu Cảnh Hưng đời Vua Lê Hiển Tông (1748), làm quan Giám sát Ngự sử.
Trước đây làng có Hội Tư văn riêng và có nhà văn chỉ để thờ cúng các vị tiên hiền của làng và là nơi nêu gương và khuyến học cho dân làng. Văn chỉ nay không còn, nhưng còn hai bia. Một bia dựng năm Tự Đức thứ 17 (1864) ghi rằng: “Vì lâu ngày, văn chỉ bị đổ nát, nên dân làng góp tiền tu sửa lại để thờ Chu Văn Trinh ở giữa và các vị khoa giáp ở hai bệ. Bia thứ hai Tứ Kì thạch lộ bi dựng năm Khải Định thứ 10 (1925) cho biết hội Tư văn làng cúng 24 đồng 2 hào để cùng làm con đường đá.
Ngoài những người đỗ đạt ngạch văn, thời Lê - Trịnh, hai làng Tứ Kỳ có một số võ quan và cung nhân có công đóng góp xây dựng làng xóm, như Cai cơ Tham đốc Đỗ Lịch, tước Dĩnh Quận công được tôn làm Hậu thần làng. Bà Chiêu Nghi Nguyễn Thị Xuyến (1597 - ?) năm 16 tuổi được tuyển vào phủ Chúa và năm 24 tuổi được làm A Bảo trông nom, phụ dưỡng Chúa Trịnh Căn. Tả Trung doãn Nguyễn Gia Vương, tước Vương Trung tử nhiều lần xin miễn phu dịch cho dân làng; Hoằng Tín đại phu Nguyễn Trọng Chuyên góp cho làng 100 quan tiền và 2 mẫu ao, ruộng làm của chung.
Hai làng Tứ Kỳ và Pháp Vân trước đây đều có đình, chùa, song đã bị hủy hoại trong chiến tranh, mới được tu bổ gần đây. Tại các di tích này còn lưu nhiều văn bia cổ có giá trị, trong đó giá trị nhất là tấm bia tám mặt ở am Dĩnh Quận công làng Tứ Kì (thường gọi là cột đá Tứ Kì), dựng năm Cảnh Trị thứ tư (1666), hiện được đưa về Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Đây là bia trụ được chạm khắc hết sức công phu, có nhiều tư liệu về tổ chức giáp, đời sống trù phú của làng thời Lê - Trịnh.
TS. Bùi Xuân Đính
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.