Ba làng: Thượng Cát, Hạ Cát và Đống Ba có chung tên nôm là Kẻ. Đây là vùng quê rất cổ, ít nhất, từ đầu công nguyên đã có cư dân sinh sống. Bản thần phả ở đình Thượng Cát có ghi lại việc hồi đầu công nguyên, nhân dân vùng Kẻ đã nổi dậy chống chính quyền đô hộ nhà Đông Hán, do ông Quách Lãng cùng hai bà Đinh Bạch nương và Đinh Tĩnh nương lãnh đạo.
Ba làng: Thượng Cát, Hạ Cát và Đống Ba có chung tên nôm là Kẻ. Đây là vùng quê rất cổ, ít nhất, từ đầu công nguyên đã có cư dân sinh sống. Bản thần phả ở đình Thượng Cát có ghi lại việc hồi đầu công nguyên, nhân dân vùng Kẻ đã nổi dậy chống chính quyền đô hộ nhà Đông Hán, do ông Quách Lãng cùng hai bà Đinh Bạch nương và Đinh Tĩnh nương lãnh đạo.
Sau, họ kéo quân lên Hát Môn theo Hai Bà Trưng, đánh giặc Tô Định giải phóng đất nước. Trưng Vương lên ngôi, phong cho Quách Lãng làm Đô Chiêu thảo sứ, phong Đinh Bạch, Đinh Tĩnh làm Bạch Khấu công chúa, cho về trấn thủ vùng Kẻ. Khi Mã Viện kéo quân sang xâm lược, đạo quân vùng Kẻ do Quách Lãng chỉ huy đã chiến đấu đến cùng. Hậu thế nhớ ơn người hy sinh vì nước, cả ba làng Kẻ đều thờ Quách Lãng và hai bà Đinh làm thành hoàng.
Từ xưa, cả ba làng Kẻ đều nằm trong một xã, nhưng về sau, thời Nguyễn cho chia tách làm hai xã, gồm xã Thượng Cát có hai thôn Thượng Cát và Đống Ba, còn làng Hạ Cát đứng riêng một xã và còn đổi gọi là Đại Cát. Cả hai xã đều thuộc tổng Hạ Trì, huyện Từ Liêm. Sau cách mạng Tháng Tám, gộp cả lại thành xã Tân Dân. Đến năm 1956 xã Tân Dân chỉ còn hai làng Thượng Cát và Đống Ba, còn Đại Cát thuộc xã Tân Tiến, huyện Đan Phượng; nhưng từ 1961, vùng này được cắt lại cho huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội. Năm 1965 thì xã Tân Dân đổi thành Thượng Cát, còn làng Đại Cát thuộc xã Liên Mạc, huyện Từ Liêm. Mặc dù có những thay đổi về hành chính như thế, nhưng trong đời sống văn hoá truyền thống, ba làng Kẻ luôn ở trong một vùng quê văn hiến nổi tiếng, được phản ánh qua câu tục ngữ cổ: Nhất Kẻ, nhì Vẽ. Làng Vẽ là làng quê nổi tiếng về có nhiều người học rộng, đỗ cao mà còn là thứ nhì! Quả thực, vùng Kẻ là vùng quê có nhiều danh nhân cả về võ, cả về văn. Ngoài anh em ông Quách Lãng với công tích từ thời Hai Bà Trưng, như đã nêu ở trên, ở vùng Kẻ còn một dấu tích lịch sử nữa là có bãi đất tên là Quân Thần Châu (Bãi Vua tôi). Đây là nơi phân chia ranh giới của Lý Phật Tử và Triệu Quang Phục, từ thế kỷ thứ VI. Đại Việt sử ký toàn thư có ghi việc khi Quang Phục xưng vương, hiệu là Triệu Việt Vương, đã không nỡ cự tuyệt Lý Phật Tử, “bèn cho chia địa giới ở bãi Quân Thần… cho Phật Tử ở phía tây”. Địa điểm này là giữa hai làng Hạ Cát và Thượng Cát. ở Hạ Cát còn một dấu tích lịch sử nữa, gọi là Vườn Hồng, là nơi xưa kia có nền nhà cũ của một vị tướng họ Vũ, làm Đại tướng cho nhà Tây Sơn. ở làng Hạ Cát, có quãng đê Hồ Đồng thường bị dò gỉ, rất yếu, nước lên to là vỡ. Đại tướng họ Vũ có lần bị đau bụng khá nguy kịch, được thầy lang trong làng chữa cho khỏi, sau ông cho quân lính về giúp dân đắp chắc chắn quãng đê. Về sau, ông bị Gia Long bắt giết, dân lập đền thờ ông. ở vùng Kẻ có danh tướng Đinh Tuấn, đời Trần, từng chỉ huy 5 vạn quân chặn giặc ở Bạch Hạc trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai. Sau, ông hi sinh anh dũng, được vua Trần phong là Linh thông đại vương thượng đẳng phúc thần…
Người đỗ đại khoa đầu tiên ở làng Thượng Cát là Nguyễn Duy Trinh, đỗ Hoàng giáp khoa Tân Sửu đời Lê Thánh Tông (1481), làm Tả thị lang Bộ Hình, từng làm chánh sứ sang ngoại giao với nhà Minh và đã làm đẹp mệnh vua. Làng Thượng Cát còn có Nguyễn Cảnh đỗ tiến sĩ khoa Tân Sửu, đời Mạc Phúc Hải (1951), làm quan cho nhà Mạc tới chức Tả Thị Lang. Sau, thấy Mạc Đăng Dung có ý đầu hàng nhà Minh, dâng cả đất đai cho nhà Minh, ông Nguyễn Cảnh quy thuận nhà Lê Trung Hưng, rồi được tặng chức Thượng thư, tước Văn hưng bá.
Vùng Kẻ có họ Trần gốc quê ở Ngọc Sơn, Tĩnh Gia, Thanh Hoá, ra lập nghiệp đã lâu đời. Trần Lương Năng đỗ tiến sĩ khoa Bính Thìn đời Lê Hy Tông (1676), làm quan đến chức Tham chính. Đời Tây Sơn, có Trần Lê Thời là một tướng giỏi, làm võ quan tới chức Đô chỉ huy sứ, tước Nam. Triều Nguyễn, có Trần Vĩ đỗ tiến sĩ khoa Tân Sửu, đời Thiệu Trị (1841), làm quan ở Viện Hàn Lâm, sau làm Đốc học Hà Nội. Họ Trần ở Kẻ còn có Trần Trực, đỗ cử nhân, cũng làm quan Đốc học; rồi có Trần Hoà Tịch là một thái y làm ở Thái y viện. Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, có Trần Trọng Cung đã theo Nguyễn Văn Giáp là Bố chính Sơn Tây xướng nghĩa Cần Vương, khởi binh chống Pháp. Sau vụ Hà Thành đầu độc, 1908, ông bị giặc Pháp bắt giam, rồi bị kết án tù trung thân, đày ra Côn Đảo. Ông bị giam ở gian cấm cố, còn làm một bài thơ gửi ra tặng các bạn tù cùng chí hướng, có câu kết thật tự tin:"ắt hẳn lòng trời phò Tổ quốc – Hoả tinh thổi đỏ giữa tầng không". Trần Trọng Cung tức Trần Văn ý đã nằm lại mãi mãi nơi Côn Đảo…ở Thượng Cát còn có họ Đàm, nổi tiếng nhất là Đàm Văn Lỵ, làm quan tới chức Thái uý, Dương quốc công, là tướng giỏi của nhà Lê Trung Hưng, đã chỉ huy quân giải phóng Thăng Long năm 1592. Sau, Đàm Văn Lỵ được thăng tới chức Thái Tễ Sung quận công. Con trai ông là Đàm Văn Giao, cũng làm quan tới chức Thái uý…
Người dân vùng Kẻ có truyền thống lao động rất cần cù, sáng tạo. Ngoài sản xuất nông nghiệp, làng Đống Ba có nghề ép dầu từ xưa, làng Đại Cát có nghề làm đậu phụ từ nhiều đời, làng Thượng Cát thì có nghề thêu từ rất lâu đời về trước và ba mươi năm trở lại đây đang phát triển mạnh.
Vùng Kẻ, vùng quê cổ kính nằm bên bờ sông Hồng, do sự chuyển dòng của sông Hồng, nên đã hàng chục lần đắp lại đê, lui vào đất ruộng. Nhưng cuộc sống ở đây vẫn kiên cường và luôn phát triển. Ngôi đình Thượng Cát và ngôi chùa Kỳ Vũ toạ lạc trên khu đất bên bờ nam sông Hồng, vẫn được giữ vững và là một danh lam thắng cảnh của Hà Nội. Đình Thượng Cát, nơi lưu giữ bản thần phả cổ mà chúng tôi nhắc tới ở đầu bài viết này. Ngoài ra, ở đây còn giữ được 33 đạo sắc phong của các đời Lê, Tây Sơn và Nguyễn; còn giữ được tấm bia đá niên hiệu Chính Hoà, thế kỷ XVII; còn đôi sấu đá thời Lê và nhiều long ngai, hoành phi câu đối có giá trị văn hoá lịch sử. Còn chùa Kỳ Vũ là một di tích tôn giáo rất quý, được xây dựng năm Vĩnh Tộ thứ 2 (1620), thờ Phật. Đến giờ chùa còn lưu giữ được 51 pho tượng tròn, tạo tác theo nghệ thuật chạm khắc thế kỷ XVII, XVIII, thếp vàng lộng lẫy. Quả chuông đồng cao 1,36 m, đường kính 0,72 m, có 6 núm gõ, quai chuông tạo hình đôi rồng đấu đuôi vào nhau rất sinh động, tinh xảo. Chuông này làm từ năm Thịnh Đức thứ 3 (1655), là một di vật cổ và thật quý hiếm. ở chùa còn có tấm bia đá dựng năm 1620, ghi việc xây dựng chùa và 4 tấm bia hậu, 1 khánh đồng, nhiều câu đối và đồ thờ tự có giá trị văn hoá - lịch sử…Đình Thượng Cát và chùa Kỳ Vũ là những vốn cổ quý giá, luôn được nhân dân vùng Kẻ trân trọng, giữ gìn, và khách du lịch tứ xứ đều ghé thăm, dâng nén hương mà nhớ các bậc tiền nhân từ muôn năm trước đã chiến đấu, lao động mà tạo dựng nên một vùng quê văn hiến của Hà Nội.
Theo HNNN
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.