Tôi may mắn được quen biết với anh Nguyễn Văn Hải - một kép đàn đáy, và vợ anh - ca nương Bạch Dương, nên đã nhiều lần được qua nhà của anh chị nghe đàn hát.
Đặc biệt, tôi được gặp người thầy của hai người - cụ Phó Thị Kim Đức, một trong những đào nương cuối cùng còn lại của thế hệ những đào nương từ thời kỳ đầu thế kỷ XX, đồng thời được tham dự một vài kỳ cuộc của giáo phường ca trù Đàn hát khuôn của cụ Kim Đức.
1. “Hơi dương đầm ấm, năm thức mây che/ Thức mây che rờ rỡ ngất trời...”. Tiếng ca vào hồi sâu lắng, hòa cùng nhịp phách tre và tiếng đàn đáy thánh thót càng lúc càng khiến bầu không khí trong phòng hát như lắng lại, và thời gian như quay ngược cả trăm năm. Đó là mấy câu trong bài "Thét nhạc" - một bài hát cũng là một thể cách đặc sắc nhất, đứng đầu trong các thể cách của nghệ thuật ca trù. Nghệ sĩ Nhân dân Phó Thị Kim Đức, người đào nương tuổi đã bát tuần có lẻ nhưng tiếng hát vẫn còn sang sảng, nhịp phách vẫn vang giòn tròn trịa, quả không hổ danh là “Tay phách Trạng nguyên” như người ta vẫn tôn xưng.
Kết thúc bài hát, đón chén trà từ tay học trò mình vừa đưa mời, cụ Kim Đức chậm rãi kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện trong cuộc đời đi hát từ năm lên bảy của mình. Cha cụ là cụ Phó Đình Ổn - một kép đàn cũng là vị quản ca ở phố cô đầu Khâm Thiên xưa, anh trai cụ là Phó Đình Kỳ cũng là một kép đàn nức tiếng hồi đầu thế kỷ trước. Cụ cùng người em họ là cụ Nguyễn Thị Chúc cùng học hát với cô đầu Yến (Phó Thị Yến) là bà trẻ cùng dòng họ Phó của cụ từ nhỏ và sớm tham gia trong các nhà hát cô đầu Khâm Thiên nổi danh một thời. Thuở ấy, ở Hà Nội không chỉ có một phố Khâm Thiên là phố cô đầu, mà nhiều khu vực khác từ phố cổ Hàng Giấy, cho đến vùng ngoại vi như Ngã Tư Sở, Vạn Thái, cũng nổi tiếng với các nhà hát cô đầu, tuyển mộ hàng loạt các đào nương giỏi từ những giáo phường ca trù cửa đình ở nhiều miền quê về đất kinh kỳ Kẻ Chợ ca hát.
Nghe đến đó, tôi lại nhớ đến ông nội mình thuở trẻ từng là một tay trống chầu cự phách. Có bận, lần tìm trong những chồng sách chữ nho của ông, tôi thấy một cuốn sách mỏng mất đầu mất cuối. Tò mò hỏi ông, ông tôi ngậm ngùi bảo, đó là cuốn sách chép các thể cách ca trù của cụ ngũ đại, trong đó cụ có ghi chú cả khổ phách, khổ đàn cùng cách điểm trống, mà ông tôi rất quý hóa. Thế nhưng thời thế biến thiên, đến nay ca trù chỉ còn là dĩ vãng, sách Nho cũng chẳng có mấy người xem, thành thử có khi đem xé đầu xé đuôi mà châm thay đóm. Thế nhưng mỗi lúc canh khuya, cầm đến cuốn sách, những điệu hát cung đàn cùng nhịp phách như còn văng vẳng bên tai. Thế rồi, ít lâu sau đó, mỗi khi nghe được trên chương trình dân ca và nhạc cổ truyền của đài phát thanh phát một bài hát ca trù, ông lại nhắc chúng tôi trật tự lắng nghe, và giảng giải rõ cho chúng tôi những câu khó hiểu. Những lúc ấy tôi thấy ánh mắt ông lại sáng bừng đầy hào hứng. Cứ như vậy chẳng biết những âm thanh của đàn đáy, phách tre, những tiếng ca thánh thót khi khoan thai khi gấp gáp ấy đã ngấm vào tôi tự lúc nào. Quãng cuối những năm 1980, trong một lần đi hiệu sách, bắt gặp cuốn “Tuyển tập thơ Ca trù” tôi liền mua tặng ông, và thi thoảng cũng tự đem ra đọc chơi. Những bài thơ với câu chữ trau chuốt, nhuần nhị có tâm tình sâu lắng, có hào sảng hiên ngang, đôi khi có cả một chút hài hước nhẹ nhàng, đan xen cùng những câu cổ thi chữ Hán ấy thực sự khiến người đọc phải say mê tìm hiểu.
2. Tưởng chừng môn nghệ thuật đầy tính bác học xa xưa ấy chỉ còn là một dĩ vãng vàng son trong ký ức những lớp người xưa, thì quãng trước sau năm 2000 đã dần được những người yêu mến nghệ thuật truyền thống tìm tòi gìn giữ. Rất nhiều nghệ sĩ bắt đầu đến gặp các nghệ nhân ca trù xưa để xin học phách, học ca, học chơi đàn đáy - cây đàn sinh ra chỉ dành để hát ca trù.
Nghệ sĩ Bạch Vân là một trong những người sớm về các làng quê tìm học các nghệ nhân tiền bối, và cũng là người sớm tổ chức một câu lạc bộ ca trù ở Bích Câu Đạo Quán trên phố Cát Linh, Hà Nội. Nghệ sĩ Phạm Thị Huệ tập hợp nhiều học trò, tìm mời nghệ nhân đàn đáy Nguyễn Phú Đẹ, nghệ nhân ca trù Nguyễn Thị Chúc truyền dạy, sau này thành lập câu lạc bộ ca trù Thăng Long hoạt động mạnh mẽ suốt một thời gian dài tại đình Cống Vị, đình Giảng Võ và đền Quan Đế. Ca trù Thái Hà của gia đình cụ Nguyễn Văn Mùi - một trong những tay trống chầu sành sỏi xưa còn lại, cũng là một trong những điểm đến của ca trù ở Thủ đô. Đặc biệt gần đây, giáo phường ca trù Đàn hát khuôn của Nghệ sĩ Nhân dân Phó Thị Kim Đức cùng các học trò của mình - kép đàn Nguyễn Văn Hải và ca nương Bạch Dương tổ chức có thể nói là một địa điểm sinh hoạt ca trù được duy trì thường xuyên. Tháng 11-2024 vừa qua, giáo phường đã có một chuyến lưu diễn và giao lưu tại một số tỉnh miền Nam, đưa ca trù tiến xa hơn khỏi địa bàn truyền thống phía Bắc.
Những cuộc liên hoa ca trù toàn quốc cũng được tổ chức liên tục một thời gian, qua đó giới chuyên môn phát hiện thêm nhiều nghệ nhân, đào, kép ở các vùng quê. Ca trù Đông Môn - Hải Phòng, ca trù Cổ Đạm - Hà Tĩnh, ca trù Lỗ Khê, Chanh Thôn - Hà Nội là những nơi còn giữ được truyền thống của những giáo phường ca trù ở làng quê xưa. Đặc biệt năm 2009, sau khi nghệ thuật ca trù được UNESCO tôn vinh là Di sản văn hóa phi vật thể nhân loại, dường như đã có một làn sóng khôi phục, truyền dạy ca trù ở nhiều địa phương, đặc biệt là Hà Nội. Đó là một tín hiệu đáng mừng, nhưng cũng rất đáng lo, bởi kỹ thuật đàn, phách, kỹ thuật hát trong ca trù hoàn toàn không dễ nắm bắt và thể hiện chuẩn xác. Những nghệ nhân thuộc lớp nghệ nhân vàng còn lại từ nền nếp của nghệ thuật ca trù xưa cứ mai một dần, những người còn lại cũng bị hạn chế bởi tuổi tác và sức khỏe, không thể truyền dạy rộng rãi cho nhiều nghệ sĩ trẻ mong muốn tìm hiểu về một nghệ thuật ca trù chuẩn mực. Nhiều câu lạc bộ, nhóm ca trù cũng chỉ hoạt động cầm chừng, thậm chí phải giải tán vì mối lo cơm, áo, gạo, tiền.
Tuy vậy, cũng đã có một số nghệ sĩ kịp học tập nắm bắt được những kỹ thuật cơ bản nhất cốt lõi nhất của nghệ thuật ca trù và tiếp tục giữ ngọn lửa đam mê ấy: Kép đàn Hoàng Khoa - Hải Phòng, kép đàn Phạm Đình Hoằng, Nguyễn Văn Hải - Hà Nội, đào nương Kim Ngọc, Thùy Linh, Bạch Dương, Thúy Hòa - Hà Nội có thể nói là những đào kép đã tiếp cận, học tập được nhiều kỹ thuật từ các nghệ nhân Nguyễn Phú Đẹ, Nguyễn Thị Chúc, Phó Thị Kim Đức... Cùng với nỗ lực học tập và tham khảo tư liệu băng ghi âm, sách vở đang ngày càng được khai thác thuận lợi hơn, đã và đang dần là lớp người kế tiếp lưu giữ vốn quý của ca trù.
3. Năm 2024, nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc Bùi Trọng Hiền sau nhiều năm lặn lội nghiên cứu đã cho ra đời cuốn “Ả Đào - một khảo cứu về lịch sử và hệ âm luật” có thể nói là một cuốn sách quan trọng, như một đóa hoa xuân của nghệ thuật ca trù, vô cùng hữu ích cho người làm nghề.
Những ngày cuối năm, ca nương Kim Ngọc báo tin nhóm của mình đã thành lập nhóm Ca trù Long Thành và bắt đầu một lớp hướng dẫn kỹ thuật cầm chầu cho những người yêu thích ca trù. Nhớ lại cuối năm 2023, Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội đã có sáng kiến tổ chức một cuộc thi thơ Hát nói Ca trù, thu hút một số tác giả nhiều lứa tuổi tham gia, tôi chợt dấy lên một niềm vui đầy hứng khởi cho nghệ thuật ca trù Thủ đô. Bởi với suy nghĩ từ một người thưởng thức, tôi nghĩ ca trù chỉ có thể phát triển mạnh mẽ trở lại nếu có được một lớp khán, thính giả đúng nghĩa - đó là những quan viên, có thể soạn bài hát nói và biết cầm chầu, chứ không thể phát triển nếu nó chỉ là một môn nghệ thuật “bảo tàng”.
Bước trên những con phố Hà Nội trong những ngày đón xuân về, nhận được những tín hiệu vui cho ca trù, tôi chợt nhớ đến mấy câu trong bài hát nói mình viết đã lâu: "Chơi cỏ biếc, dạo hoa tươi, quyện sương bay, hòa gió thoảng/ Lời ca ai nghe vẳng điệu u nhàn/ Vui xuân nhịp phách cung đàn...”.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.