Theo dõi Báo Hànộimới trên

Vụ tiêu cực tại Ban Đề án 112: Đề nghị truy tố 20 bị can

HONGVAN| 20/01/2009 15:30

(HNMO) - Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an vừa hoàn tất kết luận điều tra về vụ tiêu cực xảy ra tại Ban điều hành Đề án 112 Chính phủ và các đơn vị liên quan. Theo đó, có 20 bị can bị đề nghị truy tố, trong đó có ông Vũ Đình Thuần (SN 1942), nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Trưởng Ban đề án 112.

Ông Vũ Đình Thuần

(HNMO) - Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an vừa hoàn tất kết luận điều tra về vụ tiêu cực xảy ra tại Ban điều hành Đề án 112 Chính phủ và các đơn vị liên quan. Theo đó, có 20 bị can bị đề nghị truy tố, trong đó có ông Vũ Đình Thuần (SN 1942), nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Trưởng Ban đề án 112.

Các bị can còn lại bị truy tố gồm: Lương Cao Sơn (SN 1957), Phó Giám đốc Trung tâm tin học VPCP, Uỷ viên Thư ký Ban điều hành Đề án 112CP; Nguyễn Thuý Hà (SN 1962), Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần công nghệ tin học ISA; Nguyễn Cát Hồ (SN 1941), nguyên Tổ trưởng Tổ đào tạo Ban Đề án 112CPCP; Hoàng Đăng Bảo (SN 1973), chuyên viên Vụ cải cách hành chính Văn phòng Chính phủ; Chu Xuân Vinh (SN 1973), Giám đốc Công ty Đầu tư phát triển công nghệ ứng dụng Toàn Cầu; Lê Trung Nghĩa (SN 1955), Giám đốc Cty cổ phần phần mềm Thương mại điện tử Nhất Vinh; Trần Tấn Ngô (SN 1957), nguyên Tổng Giám đốc Tổng Công ty Sách Việt Nam; Nguyễn Thị Minh Thiệu (SN 1953), Phó Tổng giám đốc Tổng Công ty Sách Việt Nam; Nguyễn Thị Phương Hoa (SN 1961), Phó Tổng giám đốc Tổng Công ty Sách Việt Nam; Lưu Ý Nhi (SN 1958), Kế toán trưởng Tổng Công ty sách Việt Nam; Ngô Thị Nhâm (SN 1962), Phó phòng kinh doanh sách- Tổng Công ty sách Việt Nam; Vũ Thị Phương Liên (SN 1972), cán bộ Tổng Công ty Sách Việt Nam; Nguyễn Đức Giao (SN 1956), Giám đốc Nhà xuất bản Tư pháp- Bộ Tư pháp; Phạm Văn Tuấn (SN 1962), Phó Giám đốc Nhà xuất bản Tư pháp- Bộ Tư pháp; Nguyễn Duy Hùng (SN 1977), Phó phòng kế hoạch phát hành- NXB Tư pháp- Bộ Tư pháp; Phạm Thị Tuyết Lan (SN 1968), Kế toán trưởng Nhà xuất bản Tư pháp- Bộ Tư pháp; Lương Cao Phi (SN 1961), cán bộ Nhà xuất bản Xây dựng- Bộ Xây dựng; Công Tuấn Hải (SN 1979), cán bộ Nhà xuất bản Bản đồ; Lương Cao Phong (SN 1963), Giám đốc Trung tâm thẩm định và tư vấn công nghệ thông tin thuộc Công ty Cổ phần tin học và Tư vấn xây dựng- Bộ Xây dựng.

Các bị can bị đề nghị truy tố về các tội Tham ô tài sản, Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ. Trong số này, có các ông Vũ Đình Thuần, Lương Cao Sơn, Phạm Văn Tuấn, Hoàng Đăng Bảo đang bị tạm giữ.

Đề án tin học hoá quản lý hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-2005 được Chính phủ thông qua năm 2005 với mục đích xây dựng và vận hành hệ thống thông tin mạng điện tử từ TW (Chính phủ) xuống Bộ- Ngành- Tỉnh- Huyện trên phạm vi toàn quốc.

Ngày 17/9/2001, Thủ tướng chính phủ có quyết định thành lập Ban điều hành Đề án, trong đó ông Vũ Đình Thuần, Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ làm Trưởng ban và ông Lương Cao Sơn, Phó giám đốc Trung tâm thông tin Văn phòng Chính phủ làm Uỷ viên thư ký. Tính đến 30/12/2005, vốn đầu tư từ ngân sách Trung ương cấp cho Đề án là 685 tỷ đồng và đã được giải ngân toàn bộ, trong đó: vốn xây dựng cơ bản là 405 tỷ đồng được Chính phủ cấp thẳng cho các Bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trực tiếp triển khai và giải ngân, còn lại là vốn hành chính sự nghiệp.

Lợi dụng chức vụ và quyền hạn được giao, các thành viên trong Ban đề án cùng các đơn vị liên quan đã tiến hành "rút ruột" công quỹ bằng nhiều thủ đoạn tinh vi như: mua sắm phần mềm bản quyền, ký các hợp đồng triển khai dịch vụ cơ bản cho Trung tâm tích hợp dữ liệu...

Cụ thể, thông qua việc thực hiện gói thầu mua sắm phần mềm bản quyền với Công ty TNHH Công nghệ tin học ISA (Công ty ISA) do Nguyễn Thúy Hà làm Tổng giám đốc, Nguyễn Thuý Hà đã "lại quả" Lương Cao Sơn 360 triệu đồng. Số tiền này, Sơn chia cho Vũ Đình Thuần 200 triệu đồng, bà Phạm Thị Ngọc- Kế toán trưởng 80 triệu đồng còn Sơn hưởng 80 triệu đồng.

Cũng trong "phi vụ" với Công ty ISA, các bị can còn tham ô tài sản qua việc thực hiện 23 hợp đồng không đấu thầu. Theo lời khai của Nguyễn Thuý Hà, trong 23 hợp đồng này, Hà đã rút ra 150 triệu đồng để đưa Vũ Đình Thuần 100 triệu đồng, Lương Cao Sơn 50 triệu đồng.

TIếp đó, khi "làm ăn" với Công ty Cổ phần đầu tư phát triển công nghệ ứng dụng Toàn Cầu (viết tắt là Công ty Toàn Cầu) do Chu Xuân Vinh làm giám đốc, từ tháng 8/2004 đến tháng 4/2006, Chu Xuân Vinh đã ký được 24 hợp đồng triển khai dịch vụ cơ bản Trung tâm tích hợp dữ liệu với ông Vũ Đình Thuần. Để được ký và thực hiện 24 hợp đồng nêu trên mà không phải đấu thầu, Chu Xuân Vinh đã đưa Lương Cao Sơn 360 triệu đồng theo thoả thuận.

Theo lời khai của Lương Cao Sơn, Sơn biết Vinh là do Vinh chủ động làm quen khi đến dự các cuộc hội thảo của BĐA112CP. Quá trình quan hệ, Chu Xuân Vinh có đề nghị Sơn cho Vinh thực hiện các công việc của BĐA112CP, nếu được Chu Xuân Vinh có trách nhiệm chia lại tiền cho Sơn. Lương Cao Sơn đồng ý. Sau khi được Chu Xuân Vinh đưa cho 350 triệu đồng, Sơn đã chia cho Vũ Đình Thuần 30 triệu đồng, nói là tiền của Giám đốc Công ty Toàn Cầu đưa cho qua việc thực hiện các hợp đồng.

Các hợp đồng triển khai dịch vụ cho các Trung tâm tích hợp dữ liệu còn được Ban quản lý đề án ký với Công ty Cổ phần phần mềm thương mại điện tử Nhất Vinh do Lê Trung Nghĩa làm giám đốc. Từ tháng 8/2004 đến tháng 3/2006, thông qua Lương Cao Sơn, Lê Trung Nghĩa đã ký với ông Vũ Đình Thuần 20 hợp đồng về việc Triển khai dịch vụ cơ bản Trung tâm tích hợp dữ liệu cho các Bộ, tỉnh.

Trước khi ký các hợp đồng Lê Trung Nghĩa đề nghị Lương Cao Sơn giúp Nghĩa ký được hợp đồng với BĐA112CP, Nghĩa có trách nhiệm chia lại tiền cho Lương Cao Sơn. Thực hiện cam kết, Nghĩa đã đưa cho Lương Cao Sơn 1.259.000.000 đồng nhưng Sơn chỉ thừa nhận Nghĩa đưa 280 triệu đồng và Sơn đã chia lại cho Vũ Đình Thuần 45 triệu đồng.

Tại Tổng Công ty Sách Việt Nam, thông qua mối quan hệ gia đình với Lương Cao Sơn, Ngô Thị Nhâm (là em vợ Lương Cao Sơn), Phó phòng kinh doanh sách quốc văn - Tổng Công ty sách - có quen biết ông Nguyễn Cát Hồ (Tổ trưởng tổ đào tạo) và bà Phạm Thị Ngọc (Kế toán trưởng), đồng thời biết BĐA112CP có nhu cầu in sách giáo trình, tài liệu.

Để có được các hợp đồng in cho Tổng Công ty sách, Ngô Thị Nhâm đề nghị Lương Cao Sơn, Nguyễn Cát Hồ, Phạm Thị Ngọc cho Tổng Công ty sách được thực hiện việc in sách, Nhâm có trách nhiệm chia lại tiền cho BĐA112CP với danh nghĩa tiền "chiết khấu". Lương Cao Sơn và Nguyễn Cát Hồ đồng ý và hướng dẫn Ngô Thị Nhâm làm hồ sơ xin ký hợp đồng.

Tại Tổng Công ty sách, Ngô Thị Nhâm báo cáo Nguyễn Thị Phương Hoa- Trưởng phòng, Hoa đồng ý và cùng với Nhâm, Vũ Thị Phương Liên lên kế hoạch thực hiện bằng cách thông qua các mối quan hệ trong lĩnh vực kinh doanh phát hành sách để chuyển sách giáo trình mẫu cho các nhà sách tư nhân, công ty bên ngoài in sau đó ký hợp đồng mua lại, để gửi giá rút tiền chia cho Lương Cao Sơn, Nguyễn Cát Hồ theo cam kết và chia nhau. Sau khi thống nhất với Nhâm và Liên, Hoa báo cáo Lưu Ý Nhi (Kế toán trưởng), Nhi đồng ý và cùng với Hoa trực tiếp báo cáo xin ý kiến Nguyễn Thị Minh Thiệu (Phó Tổng giám đốc). Nguyễn Thị Minh Thiệu đồng ý với chủ trương, phương pháp thực hiện của Hoa và Nhi đưa ra. Riêng Hoa còn trực tiếp báo cáo các ông Trần Tấn Ngô (Tổng giám đốc) và ông Bùi Văn Biển (Phó Tổng giám đốc), ông Ngô và ông Biển đồng ý với đề xuất của Hoa.

Sau đó, thông qua mối quan hệ công tác trong cùng cơ quan Bộ, Nguyễn Thị Phương Hoa đã làm thủ tục đề nghị và được ông Lý Bá Toàn (Phó Cục trưởng Cục Xuất bản- Bộ VHTT) cấp 4 giấy phép cho việc xuất bản giáo trình tài liệu cho BĐA112CP; Thông qua mối quan hệ trong lĩnh vực in ấn và xuất bản, Nguyễn Thị Phương Hoa nhờ ông Nguyễn Đình Thiêm (Giám đốc NXB Lao động Xã hội) cấp trích ngang kế hoạch và 9 Giấy phép xuất bản cho Hoa thực hiện việc in ấn giáo trình tài liệu.

Theo hướng dẫn của Lương Cao Sơn và Nguyễn Cát Hồ là phải có 2 Báo giá của hai đơn vị khác nhau đưa vào hồ sơ xin ký hợp đồng nhằm thể hiện có sự cạnh tranh, trên cơ sở sách mẫu và lượng cần in, Nguyễn Thị Phương Hoa, Ngô Thị Nhâm và Vũ Thị Phương Liên đã đánh máy sẵn các bản báo giá có giá in cao hơn giá của Tổng Công ty sách và thông qua các ông, bà: Lê Thị Kim Uyên (Công ty dịch vụ hỗ trợ tư vấn đầu tư) xin xác nhận 4 báo giá; Trần Đại Thắng (Công ty cổ phần văn hoá Đông A) xin xác nhận 3 báo giá; Vạn Quốc Bình (Công ty TNHH sách và văn hoá tổng hợp Triều Dương) xin xác nhận 2 báo giá; Lương Văn Dũng (NXB Âm nhạc) xin xác nhận 1 báo giá; Hoàng Vân (Công ty cổ phần phát hành văn hoá phẩm CPI) xin xác nhận 4 báo giá; Mai Quế Anh (Công ty TNHH Phát Anh) xin xác nhận 2 báo giá và chuyển cho BĐA112CP xin ký hợp đồng.

Kết quả, lãnh đạo Tổng Công ty sách đã ký với Vũ Đình Thuần, Trưởng BĐA112CP 13 hợp đồng cung cấp sách và xuất 1 hoá đơn bán 40 vỏ hộp (không có hợp đồng) với tổng giá trị là hơn 2 tỷ .372 triệu đồng. Toàn bộ hợp đồng đã được quyết toán, BĐA112CP đã thanh toán trả cho Tổng Công ty sách hơn 2.280 triệu đồng, còn thiếu 92 triệu đồng.

Sau khi ký các hợp đồng cung cấp sách cho BĐA112CP, Nguyễn Thị Phương Hoa thoả thuận với Đặng Quang Hưng (nhà sách Hưng Dân), Nguyễn Thị Thanh Hà (chủ nhà sách Đông Đô), Đặng Thị Hiền (chủ nhà sách Tri Thức) và thống nhất Hoa sẽ chuyển sách mẫu kèm theo tiêu chuẩn chất lượng, số lượng cần in để các nhà sách thực hiện việc in; sau khi in đủ yêu cầu, Tổng Công ty sách sẽ ký hợp đồng mua lại. Về thanh toán, Hoa sẽ chuyển toàn bộ tiền theo các hợp đồng bằng chuyển khoản, tuy nhiên các nhà sách chỉ được hưởng chi phí in, lãi 10% giá trị hợp đồng, thuế 3%, số còn lại phải trả cho Hoa bằng tiền mặt. Kết quả, Nhà sách Đông Đô do Nguyễn Thị Thanh Hà đứng ra ký 4 hợp đồng đã trích trả lại cho Nguyễn Thị Phương Hoa gần 434 triệu đồng; Nhà sách Tri Thức do bà Đặng Thị Hiền đại diện đã ký 3 hợp đồng, trích trả lại cho Nguyễn Thị Phương Hoa 221.360.000 đồng; Nhà sách Hưng Dân, đại diện là ông Bùi Văn Dân đã ký 3 hợp đồng, trích trả lại cho Nguyễn Thị Phương Hoa 160.733.000 đồng.

Ngoài việc chuyển sách mẫu cho ba nhà sách tư nhân in rồi ký hợp đồng mua lại để gửi giá rút tiền, Nguyễn Thị Phương Hoa, Vũ Thị Phương Liên còn chuyển sách mẫu để thuê Xí nghiệp in SaViNa và Cty TNHH in Việt Hưng in lấy sản phẩm giao cho BĐA112CP nhưng hợp đồng và chứng từ thanh toán lại được hợp pháp hoá của các đơn vị khác để rút tiền.  Sau khi trừ chi phí in, Hoa đã rút số tiền: 143.491.000 đồng. Tổng cộng, Nguyễn Thị Phương Hoa đã rút ra 1.014.249.000 đồng. Thực hiện xong, Hoa bổ sung phần dự kiến chia lãi và quyết toán dự án trình lãnh đạo Tổng Công ty ký duyệt.

Với số tiền hơn 1 tỷ rút được, Ngô Thị Nhâm đã ký nhận 717.535.000 đồng để chi cho BĐA112CP theo cam kết, còn lại 277.825.000 đồng, Nguyễn Thị Phương Hoa chia trong Tổng Công ty sách.

Việc ăn chia và hưởng lợi cá nhân, Nhâm khai đã ký nhận từ Nguyễn Thị Phương Hoa 717.535.000 đồng để chuyển cho Sơn, Hồ, Ngọc như cam kết, nhưng mới chuyển cho chị Ngọc và Nguyễn Thị Mỹ Hạnh kế toán BĐA112CP số tiền 90 triệu đồng và đưa biếu một số cán bộ khác nhân dịp lễ tết 20 triệu đồng, còn hơn 607 triệu đồng, Nhâm giữ.

Khi Cơ quan điều tra phát hiện, làm rõ, ngày 08/8/2007, Nhâm đã nộp vào tài khoản tạm giữ của Cơ quan CSĐT- Bộ Công an 680.000.000đ để khắc phục hậu quả.

Tại Nhà xuất bản Tư pháp do Nguyễn Đức Giao làm Giám đốc, Phạm Văn Tuấn làm Phó giám đốc, Phạm Thị Tuyết Lan làm Kế toán trưởng và Nguyễn Duy Hùng- Phó phòng Phụ trách Phòng Kế hoạch phát hành, thông qua sự môi giới của Hoàng Đăng Bảo, thư ký của Vũ Đình Thuần, trong thời gian từ tháng 3/2004 đến tháng 6/2006, Nguyễn Đức Giao đã ký với Vũ Đình Thuần 28 hợp đồng in ấn giáo trình, tài liệu theo mẫu đã biên soạn của BĐA112CP trị giá 3.802.995.000 đồng. Các bên đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo cam kết; NXB Tư pháp đã bàn giao đầy đủ sản phẩm in ấn, BĐA112CP đã thanh toán 3.125.495.000 đồng và xác nhận nợ 667.500.000 đồng.

Quá trình thực hiện hợp đồng, Nguyễn Đức Giao chỉ đạo Nguyễn Duy Hùng, Phạm Thị Tuyết Lan làm thủ tục chi trái phép từ quỹ NXB Tư pháp 501.504.000 đồng với các lý do thanh toán tiền nhuận bút và phát hành phí để chia lại cho BĐA112CP.

Do NXB Tư pháp không có chức năng in, không có nhà in, để có giáo trình, tài liệu giao cho BĐA112CP, Nguyễn Đức Giao thông qua các mối quan hệ trong Hội in ấn- xuất bản ký hợp đồng giao cho 7 Công ty in thực hiện gồm: Công ty Hữu Nghị, Công ty in Khuyến Học, Công ty in Giao Thông, Công ty TNHH in Việt Hưng, Công ty cổ phần in Cầu Giấy, Công ty in Thống Nhất, Công ty in Văn hoá phẩm. Trong đó, Nguyễn Đức Giao và Nguyễn Duy Hùng đã tiến hành gửi giá qua các hợp đồng với Công ty in Khuyến Học, Công ty Hữu Nghị, Công ty in Giao thông để rút ra 667.000.000 đồng chia cho BĐH 112CP và chia nhau.

Trong phi vụ với Công ty in Khuyến Học, lợi dụng việc có anh trai là Lương Cao Sơn làm uỷ viên thư ký, Tổ trưởng Tổ kế hoạch BĐA112CP, Lương Cao Phi biết tại BĐA112CP có các hợp đồng in ấn giáo trình tài liệu có thể làm ăn được nếu giới thiệu cho các công ty in để lấy tiền môi giới. Cũng thông qua anh trai là Lương Cao Sơn, Lương Cao Phi chủ động quan hệ với Phạm Thị Ngọc- Kế toán trưởng, Nguyễn Cát Hồ- Tổ trưởng Tổ đào tạo và nhiều người khác ở BĐA112CP để những người này giúp Phi nhận được hợp đồng đưa đi môi giới hưởng lợi cá nhân. Lương Cao Phi đã bàn bạc với Công Tuấn Hải và có 3 lần Lương Cao Phi và Công Tuấn Hải môi giới cho Phạm Trần Việt Anh ký được 5 hợp đồng với BĐA112CP để trục lợi 420.000.000 đồng. Lương Cao Phi khai nhận 350.000.000 đồng từ Hải. CÒn Hải, mỗi lần đưa tiền cho Phi, giữ lại 10.000.000 đồng, tổng cộng 70.000.000 đồng.

Đơn vị cuối cùng "vào cuộc" trong vụ án này là Công ty tin học và tư vấn xây dựng, một doanh nghiệp thuộc Bộ Xây dựng do ông Phạm Văn Hạc làm Giám đốc.

Thông qua sự môi giới của Lương Cao Phong, giám đốc Trung tâm thẩm định và tư vấn thông tin thuộc Công ty Tin học xây dựng và là em ruột Lương Cao Sơn, trong thời gian từ tháng 10/2004 đến tháng 12/2005, ông Phạm Văn Hạc đã ký với Vũ Đình Thuần 15 hợp đồng kinh tế và 1 giao dịch trực tiếp, tổng giá trị 1.681.592.800 đồng. Tiền môi giới Lương Cao Phong nhận của Công ty Tin học xây dựng là 113.019.000 đồng.

Sau khi ký 7 hợp đồng đào tạo, ông Phạm Văn Hạc giao cho ông Tôn Thành Tài- Giám đốc Trung tâm Đào tạo quản lý, tổ chức giảng dạy. Lương Cao Phong không tham gia nhưng để có lý do chi tiền môi giới cho Lương Cao Phong, ông Phạm Văn Hạc cho lập 6 hợp đồng khoán việc tổ chức quản lý lớp học cho Lương Cao Phong và ông Tôn Thành Tài. Trên cơ sở đó, Lương Cao Phong đã nhận 85 triệu đồng.

Với 8 hợp đồng còn lại, ông Phạm Văn Hạc tổ chức thực hiện tại Công ty 2 hợp đồng, còn lại 6 hợp đồng, tổng trị giá 203.700.000 đồng được giao cho Lương Cao Phong thực hiện. Theo yêu cầu của Lương Cao Phong, ông Hạc chi cho Phong 28 triệu đồng tiền môi giới. Tổng cộng, Lương Cao Phong ký nhận của Công ty Tin học xây dựng 316.719.000 đồng, trong đó tiền môi giới hợp đồng là 113.019.000 đồng.

Vân An
(0) Bình luận
Nổi bật
    Đừng bỏ lỡ
    Vụ tiêu cực tại Ban Đề án 112: Đề nghị truy tố 20 bị can

    (*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.