Theo dõi Báo Hànộimới trên

Việt Nam tiến tới loại trừ hoàn toàn sản xuất và sử dụng chất huỷ hoại tầng ozon

TUANANH| 18/09/2003 17:10

Với mục tiêu loại trừ dần, tiến tới loại trừ hoàn toàn sản xuất và sử dụng các chất huỷ hoại tầng ozone (ODS) trên phạm vi toàn cầu, Nghị định thư Montreal với sự phê chuẩn của 183 quốc gia đã trở thành khuôn mẫu quốc tế để giải quyết các vấn đề môi trường toàn cầu. Chương trình quốc gia của Việt Nam nhằm loại trừ dần ODS (CTQG) thu được những thành công đáng kể. Tuy nhiên, vẫn cần ngay một hệ thống kiểm soát chặt chẽ hệ thống các chất huỷ hoại tầng ozone.

Lỗ hổng tầng ozon ở Nam cực
Với mục tiêu loại trừ dần, tiến tới loại trừ hoàn toàn sản xuất và sử dụng các chất huỷ hoại tầng ozone (ODS) trên phạm vi toàn cầu, Nghị định thư Montreal với sự phê chuẩn của 183 quốc gia đã trở thành khuôn mẫu quốc tế để giải quyết các vấn đề môi trường toàn cầu. Chương trình quốc gia của Việt Nam nhằm loại trừ dần ODS (CTQG) thu được những thành công đáng kể. Tuy nhiên, vẫn cần ngay một hệ thống kiểm soát chặt chẽ hệ thống các chất huỷ hoại tầng ozone.

Những nghiên cứu khoa học mới nhất cho thấy thời kỳ đạt đến cực trị của ODS trong khí quyển sẽ diễn ra từ năm 2010 cho đến năm 2019 và tầng ozone hiện vẫn trong tình trạng bị tổn thương dù việc sản xuất và sử dụng các chất CFC, một trong những ODS chính, chỉ còn 14% so với trước đây. Diện tích lỗ thủng ozone trên trên vùng Nam Cực đã đạt kỷ lục lớn nhất từ trước đến nay: 28,3 triệu km2. Đồng thời, các nhà khoa học cảnh báo về nguy cơ hiện hữu của một lỗ thủng ozone tương tự sẽ xuất hiện trên vùng Bắc Cực.

Tại Việt Nam, tổng lượng tiêu thụ ODS bị kiểm soát bởi Nghị định thư Montreal trung bình 3 năm từ 1995 - 1997 là 500 tấn. Tính bình quân theo đầu người, lượng tiêu thụ ODS ở Việt Nam khoảng 0,006kg/năm. Theo số liệu thống kê của CTQG, lượng tiêu thụ chất CFC-11 năm 1999 là 87,5 tấn so với 22,24 tấn năm 1993, khí CFC-12 năm 1999 là 205 tấn so với 267,81 tấn năm 1993, Halon 1310 năm 1999 là 4 tấn so 10 tấn năm 1993. Có thể thấy, lượng tiêu thụ ODS ở Việt Nam tăng do tình hình phát triển sản xuất và kinh tế - xã hội. Điều này phù hợp với dự báo của CTQG. Tuy nhiên, những nỗ lực trong việc thực hiện CTQG đã khiến lượng tiêu thụ và sử dụng ODS trong các lĩnh vực tiêu thụ chính là mỹ phẩm và làm lạnh đã được loại trừ đến 50%.

Theo Vụ Hợp tác Quốc tế BộTN&MT, nhiều chính sách đã và sẽ được thực hiện trong khuôn khổ CTQG nhằm loại trừ việc sử dụng ODS. Theo đó, việc xuất nhập khẩu ODS và những sản phẩm có chứa ODS, công nghệ chứa ODS được kiểm soát bằng các quy chế về quản lý xuất nhập khẩu. Giá cả ODS và các chất thay thế, công nghệ thay thế có thể được điều tiết khi cần thiết để đảm bảo một quá trình chuyển tiếp hài hoà, đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng, người sản xuất. Ngoài ra, chính sách thuế cũng là công cụ để tăng cường loại trừ ODS. Những sản phẩm được sản xuất từ công nghệ thân thiện với tầng ozone được khuyến khích về thuế, áp dụng giảm, miễn thuế đối với những thiết bị thu hồi và tái sử dụng ODS. Bên cạnh đó, Việt Nam chỉ cho phép tiếp nhận hoặc triển khai dự án công nghệ không có ODS đối với tất cả những dự án đầu tư mới, dành ngân quỹ đặc biệt để ủng hộ và khuyến khích triển khai nghiên cứu và áp dụng ở Việt Nam công nghệ thiện hữu với tầng ozone.

Kế hoạch hành động của CTQG, vẫn theo Vụ Hợp tác Quốc tế Bộ TN&MT, là giữ nguyên mức ODS thuộc lĩnh vực sol khí trong ngành mỹ phẩm và dược phẩm năm 1994 và tiến tới loại trừ hoàn toàn vào năm 2005. Việc loại trừ hoàn toàn ODS trong sản xuất bọt xốp (foam) được bắt đầu từ năm 1996 và kết thúc vào năm 2005. Từ năm 1996 CTQG đã bắt đầu thực hiện loại trừ ODS trong lĩnh vực làm lạnh và điều hoà không khí, Halon trong chữa cháy và CFC trong dung môi, tẩy rửa. Tính đến nay, Việt Nam đã nhận được tài trợ thông qua Quỹ đa phương về ozone của Nghị định thư Montreal và dưới dạng song phương với các nước công nghiệp 28 dự án với số vốn hỗ trợ không hoàn lại hơn 4 triệu USD. Dự kiến loại trừ được 232 tấn ODS khi dự án kết thúc.

Trao đổi với NetNam, ông Lương Đức Khoa - chuyên viên về ozone thuộc Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ TN&MT, cho biết vẫn còn nhiều vướng mắc trong thực hiện CTQG. Trước hết, đó là hệ thống kiểm soát chưa đáp ứng được yêu cầu của Nghị định thư Montreal. Theo ông Khoa, CTQG mới tập trung vào loại trừ ODS tại những nhà máy, KCN lớn mà chưa chú trọng đến những cơ sở nhỏ hơn, nhưng lại có tỷ lệ phát thải ODS không nhỏ. Đó là những cửa hàng sửa chữa điện lạnh, điều hoà không khí. Những cửa hàng này sử dụng nhiều thiết bị cũ tồn kho, đặc biệt là lốc tủ lạnh R12 vốn từ lâu không còn sử dụng ở những nước phát triển. Các cơ sở trên lại phân bố quá rộng nên gây rất nhiều khó khăn cho việc xử lý. Tuy nhiên, nhiều cơ sở đã được nhận máy thu gom thuộc dự án tài trợ song phương 200 máy thu gom.

Thứ hai, ở các  nước phát triển, các DN đều phải đăng ký quota nhập khẩu các linh kiện hoặc công nghệ chứa ODS. Tuy nhiên, những mặt hàng này không bị cấm ở Việt Nam nên các DN vẫn có thể được tự do nhập về. Vì vậy cần phải thiết lập ngay hệ thống kiểm soát thông qua quota nhập khẩu. Ông Khoa cũng khuyến cáo, để thực hiện tốt hơn CTQG, người tiêu dùng nên mua các sản phẩm tủ lạnh, điều hoà không khí ô tô, điều hoà không khí, bình xịt nước không có chất CFC vốn được coi là đặc biệt nguy hiểm đối với tầng ozone.

Theo NetNam

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Việt Nam tiến tới loại trừ hoàn toàn sản xuất và sử dụng chất huỷ hoại tầng ozon

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.