Luật Phá sản doanh nghiệp ( PSDN) có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-7-1994, cũng từ đó Toà án nhân dân ( TAND) chính thức thực hiện nhiệm vụ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Sau 7 năm triển khai, thi hành Luật PSDN , theo thống kê của TAND TC, số lượng đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp chưa nhiều, bình quân mỗi năm toàn ngành toà án chỉ nhận được và thụ lý khoảng 30 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong số này thì khoảng 1/2 số đơn phải đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết hoặc giải quyết bằng hoà giải thành
Luật Phá sản doanh nghiệp ( PSDN) có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-7-1994, cũng từ đó Toà án nhân dân ( TAND) chính thức thực hiện nhiệm vụ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Sau 7 năm triển khai, thi hành Luật PSDN , theo thống kê của TAND TC, số lượng đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp chưa nhiều, bình quân mỗi năm toàn ngành toà án chỉ nhận được và thụ lý khoảng 30 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong số này thì khoảng 1/2 số đơn phải đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết hoặc giải quyết bằng hoà giải thành. Theo thống kê chưa đầy đủ của TANDTC, trên phạm vi toàn quốc mới có khoảng 70 doanh nghiệp bị toà án ra quyết định tuyên bố phá sản.
Kể từ khi thi hành Luật PSDN thì số lượng doanh nghiệp bị yêu cầu tuyên bố phá sản rất thấp (mỗi năm không qúa 30 vụ). Đó là một con số mang nhiều ý nghĩa khi chúng ta so sánh với tổng số các doanh nghiệp đang hoạt động và đánh giá hiệu quả điều chỉnh của pháp luật phá sản. Theo số liệu thống kê thì tổng số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh hàng năm là: năm 1994 có 7176; năm 1995 có 6158; năm 1996 có 5485; năm 1997 có 4636; năm 1998 có 4252; năm 1999 có 5782; năm 2000 có 14413. Như vậy, tỷ lệ doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản là quá thấp so với số doanh nghiệp được thành lập. Thực trạng này lại không phản ánh đúng tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp. Kể từ khi Luật Doanh nghiệp ra đời, số lượng doanh nghiệp được thành lập đã tăng gấp nhiều lần so với trước nhưng thực trạng giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản lại không có biến chuyển gì. Thực tế, doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, chấm dứt hoạt động nhưng không giải quyết theo thủ tục phá sản là một hiện tượng không phải là ít. Vì nhiều lý do khác nhau mà các chủ nợ, doanh nghiệp mắc nợ không muốn nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản.
Nhiều đơn yêu cầu tuyên bố phá sản không được thụ lý hồ sơ do hồ sơ không đầy đủ như không đủ sổ sách, chứng từ kế toán để xác định việc thua lỗ, hay khó khăn trong kinh doanh hoặc thiếu kiểm toán... Ví dụ ở TP Hồ Chí Minh có 21 trường hợp nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản nhưng có 11 trường hợp không đủ hồ sơ theo quy định của Luật PSDN, chỉ có 10 trường hợp được toà Kinh tế chấp nhận và ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Thực tế, nhiều hồ sơ đòi nợ phải "đi lòng vòng" qua khá nhiều cơ quan như công an, kiểm sát mới quay về toà án. Ví dụ vụ Cty TNHH Computer Việt Nam 100% vốn nước ngoài ở thành phố Hồ Chí Minh trước khi đưa ra toà thì các chủ nợ lại gửi hồ sơ yêu cầu UBND Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó UBND Thành phố lại chuyển cho Sở Kế hoạch và Đầu tư xử lý, sau đó Sở này mới lại chuyển cho TAND Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết.
Số doanh nghiệp bị toà án ra quyết định tuyên bố phá sản chiếm tỷ lệ thấp trong số các vụ việc yêu cầu tuyên bố phá sản được Toà án thụ lý. VD TAND Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý và ra quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản 10 trường hợp nhưng mới ra quyết định tuyên bố phá sản được 2 doanh nghiệp là Cty TNHH Đức Thắng và Cty Tamexco. Số vụ việc còn lại một phần được đình chỉ do hoà giải thành nhưng cũng không ít trường hợp bị đình chỉ do Hội nghị chủ nợ không tiến hành được, do không đủ thành phần theo quy định của Luật PSDN như vụ Cty TNHH may mặc Ngọc Thảo. Cty TNHH thương mại Bảo Sơn Thành phố Hồ Chí Minh; hoặc đình chỉ giải quyết phá sản để xử lý hình sự do phát hiện có hành vi lợi dụng yêu cầu tuyên bố phá sản để chiếm đoạt tài sản, trốn tránh nghĩa vụ trả nợ như DNTN Kim Thoại Cần Thơ, Cty TNHH Ngọc Thảo thành phố Hồ Chí Minh... Nhiều vụ việc bị treo lơ lửng với nhiều lý do khác nhau (như chờ kết quả giải quyết vụ án hình sự ở Cty XNK Bình Tây hay vì quá phức tạp hoặc phải chờ đợi hướng dẫn).
Các doanh nghiệp đã bị tuyên bố phá sản kể từ năm 1995 đến nay hầu như chỉ rơi vào doanh nghiệp tư nhân hoặc Cty TNHH, Cty cổ phần hoặc một vài trường hợp doanh nghiệp liên doanh. Qua số liệu thống kê cho thấy, số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bị giải quyết theo thủ tục phá sản chiếm một tỷ lệ cao so với DNNN và hợp tác xã. Tính đến hết năm 1999,mới chỉ có 10 doanh nghiệp Nhà nước, 2 hợp tác xã bị tuyên bố phá sản trên tổng số 64 vụ việc phá sản. Đây là một thực trạng chung của các địa phương,các doanh nghiệp Nhà nước được hưởng nhiều ưu đãi, trợ giúp của Nhà nước trong quá trình sản xuất kinh doanh (ưu đãi đầu tư, miễn thuế, giảm thuế...); trong trường hợp lâm vào tình trạng phá sản, toà án chỉ quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản khi có văn bản của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định, không áp dụng biện pháp cứu vãn doanh nghiệp. Xuất phát từ đó, số doanh nghiệp Nhà nước bị mở thủ tục phá sản đã ít thì số doanh nghiệp Nhà nước bị tuyên bố phá sản lại càng ít hơn.
Tình trạng các cơ quan quản lý không đưa ra quan điểm dứt khoát của mình về việc giải về việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản DNNN, còn lấn cấn giữa phá sản với việc giải thể doanh nghiệp xảy ra khá phổ biến. Dẫn đến nhiều DNNN đã lâm vào tình trạng phá sản nhưng vẫn được cơ quan quản lý cho giải thể mà không giải quyết theo thủ tục phá sản.
Thời gian giải quyết vụ phá sản từ khi thụ lý đến khi ra quyết định tuyên bố phá sản ( nếu không hoà giải thành) theo luật PSDN thường là từ 5-8 tháng nhưng trên thực tế có một số vụ việc kéo dài từ 2-3 năm, như vụ Tamexco thành phố Hồ Chí Minh. Thời hạn tố tụng bị vi phạm khá nhiều, ví dụ vụ Cty TNHH may mặc và chế biến nông sản Ngọc Thảo Thành phố Hồ Chí Minh được mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản ngày 8-8-1997 nhưng đến ngày 29-6-1998 hội nghị chủ nợ mới họp ( 10 tháng); vụ Cty TNHH Bảo Sơn Thành phố Hồ Chí Minh có quyết định mở thủ tục phá sản từ 10-2-1999 nhưng đến ngày 12-10-1999 mới họp hội nghị chủ nợ (hơn 8 tháng). Trong khi đó, theo quy định của các Điều 21,22,27 của Luật PSDN thì kể từ khi đăng báo lần đầu quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, trong thời hạn 115 ngày (gần 4 tháng), Thẩm phán phải triệu tập Hội nghị chủ nợ.
Các vụ án hình sự được khởi tố trước và có thể sau khi Toà án đã mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Trong thực tế, các trường hợp này gây khó khăn cho cả toà án và cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, đôi khi là tranh luận gay gắt giữa các cơ quan này với nhau (như vụ Cty TNHH Ngọc Thảo ở Thành phố Hồ Chí Minh). Vụ việc giải quyết phá sản liên quan đến vụ án hình sự xảy ra cả với doanh nghiệp Nhà nước như Cty Tamexco, Cty XNK Bình Tây,Cty Mài Lam Sơn Thành phố Hồ Chí Minh... Thực tế giải quyết thi hành trong thời gian qua cho thấy, một trong các nguyên nhân làm cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là do chính doanh nghiệp vi phạm pháp luật. Không ít doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh dùng thủ đoạn,mánh khoé lừa đảo, chiếm dụng vốn nên đã bị các cơ quan có thẩm quyền xử lý bằng các biện pháp hành chính, hình sự, kinh tế, dân sự. Do phải thi hành nghĩa vụ tài sản quá lớn nên lâm vào tính trạng phá sản (vụ Cty Tamexco).
Việc gặp khó khăn, kinh doanh thua lỗ dẫn đến lâm vào tình trạng phá sản thì tài sản còn lại của doanh nghiệp không thanh toán đủ tổng giá trị các khoản nợ là tất yếu. Tuy nhiên, thực tế tình trạng các doanh nghiệp mắc nợ với số nợ quá lớn, vượt quá nhiều so với giá trị còn lại của doanh nghiệp xảy ra khá nhiều. Ví dụ Cty Tamexco Thành phố Hồ Chí Minh, nợ phải trả là 368.321.392.108 đồng, nợ phải thu là 235.541.520.213 đồng, giá trị tài sản còn lại chỉ có 9.463.842.880 đồng, cân đối tài sản có và nợ, Cty mất khả năng thanh toán 105.316.029.015 đồng. Cty TNHH Ngọc Thảo thành phố Hồ Chí Minh nợ phải trả là 324.257.263.422 đồng, nợ phải thu 169.898.000 đồng, giá trị tài sản còn lại 199.315.757.543 đồng, cân đối tài sản có và nợ Cty mất khả năng thanh toán nợ 124.771.607.879 đồng.
P.V
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.