Theo dõi Báo Hànộimới trên

Vài nét về nền toán học Hy Lạp cổ đại

Vũ Kim Thủy - Hoàng Trọng Hảo| 22/09/2013 07:40

(HNM) -Toán học Hy Lạp cổ đại là toán học được viết bằng tiếng Hy Lạp trong giai đoạn khoảng từ năm 600 trước Công nguyên (TCN) đến năm 30 TCN. Trong đó, từ sau năm 332 TCN, Ai Cập thuộc Hy Lạp, có sự kế thừa và giao lưu văn hóa giữa các nền văn minh.

Thời kỳ này được gọi là Hy Lạp hóa, các nhà toán học Hy Lạp ở khắp vùng Địa Trung Hải có sự thống nhất về văn hóa và ngôn ngữ. Đồng thời, những tài liệu bằng tiếng Ai Cập được dịch sang tiếng Hy Lạp để kế thừa. Trong thời kỳ Hy Lạp hóa, các nhà toán học đã sử dụng thư từ hay gặp gỡ nhau để trao đổi, học hỏi, tạo ra một cộng đồng những người làm toán không đơn lẻ như những thời kỳ trước, góp phần làm cho toán học phát triển nhanh hơn. Nhiều thành tựu của toán học của Ai Cập, Ấn Độ, Babylon đã được những nhà toán học Hy Lạp tiếp thu, kế thừa trong quá trình đi học hỏi ở những vùng này.

Các nhà toán học cổ Hy Lạp đã tạo ra một giai đoạn phát triển toán học rực rỡ trong lịch sử phát triển toán học của nhân loại, với những tên tuổi lớn tạo nền móng cho sự phát triển của toán học. Có thể kể đến những nhà toán học lớn Archimedes, Euclid, Aristotle, Platon, Pythagore, Thales, Eratosthenes, Diophantus, Menelaus, Apollonius, Hippocrates, Democritus, Heron, Hipparchus...

Đặc điểm nổi bật của toán học giai đoạn này là một số tính chất toán học đã biết một cách đơn lẻ trước đó thì nay được quy nạp, chứng minh chặt chẽ bằng lập luận, để trở thành những định lý hay công thức tổng quát. Chẳng hạn, trước đó, nhiều nền toán học đã xuất hiện những bộ ba Pythagore nhưng nhà toán học này đã phát biểu và chứng minh thành một định lý mang tính tổng quát cho mọi tam giác vuông. Hay như bộ “Cơ sở” của Euclid, đặt nền móng cho việc ra đời của hình học. Cũng chính ông đã xây dựng thuật toán tìm ước số chung của hai số đếm bất kỳ trong số học. Trong thời kỳ này, Aristotle đã đặt cơ sở cho phân môn logic học, tạo cơ sở lý luận trong khoa học, còn Hipparchus thì đặt nền móng cho lượng giác. Thời kỳ này cũng đạt được một số tiến bộ về đại số, giải tích... Một đặc điểm nữa là toán học thời kỳ này có xu hướng hình học hóa, nghĩa là những bài toán ở lĩnh vực khác như số học, đại số thì đều được tìm cách giải bằng hình học.

Thành tựu lớn của toán học nói riêng và khoa học, giáo dục nói chung của giai đoạn này là nhiều trường học đã được mở để dạy kiến thức khoa học cho nhiều người, trong đó có cả nữ giới. Những học sinh đã được truyền dạy lý tưởng khoa học, tạo động lực bản thân ham học hỏi tri thức. Nhiều kiến thức về toán học, triết học, vật lý, y học đã được truyền dạy trong các trường. Một số trường chuyên tâm nghiên cứu sâu về một lĩnh vực của toán học, tạo ra những trường phái toán học nổi tiếng. Có thể kể đến trường của Pythagore, Platon hay Thư viện Alexandria. Học viện của Platon là một trong những trung tâm của toán học thế giới thế kỷ IV TCN.

Kết quả kỳ trước. Năm 1995, hai nhà khoa học người Pháp là Daniel Benest và J.L.Duvent công bố công trình trên tạp chí “Thiên văn học và Vật lí thiên văn” khẳng định dựa trên những quan sát trong hệ thống Sirius thì tồn tại một ngôi sao nhỏ thứ ba và gọi đó là Sao Thiên Lang C.

Kỳ này. Em hãy cho biết công thức Heron dùng để tính gì? Câu trả lời gửi về chuyên mục “Toán học, học mà chơi”, Tòa soạn Báo Hànộimới, 44 Lê Thái Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội.

(0) Bình luận
Đừng bỏ lỡ
Vài nét về nền toán học Hy Lạp cổ đại

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.