(HNM) - Trước năm 1884, Hà Nội chưa có phương tiện giao thông công cộng. Dân nghèo thì đi bộ, khá giả thì ngồi xe đẩy (giống như xe cải tiến hiện nay, trước có người kéo, sau có người đẩy), quan ngồi kiệu và nếu đi công vụ xa, họ nằm cáng. Việc đi lại trong thành phố được cải thiện vào năm 1885 nhờ sáng kiến của viên chỉ huy trưởng thành phố khi ông này cho mở dịch vụ xe khách.
Tiếng leng keng tàu điện luôn in đậm trong ký ức mỗi người Hà Nội. |
Phương tiện giao thông công cộng đầu tiên ở Hà Nội là những chiếc xe nhỏ do ngựa kéo chở được 4 người. Lộ trình xe là chạy từ khu nhượng địa (phố Phạm Ngũ Lão hiện nay) qua Tràng Tiền, đến Hàng Khay, chạy qua Cửa Nam rồi đến khu vực Thành. Một lộ trình nữa cũng bắt đầu từ khu nhượng địa đến ngã tư Tràng Thi - Quang Trung thì rẽ ra phố Nhà Chung. Lý do để giao thông công cộng Hà Nội ra đời là các tuyến phố Tràng Tiền, Hàng Khay, Hàng Bài, Hàng Trống, Nhà Chung... đã được cải tạo theo quy hoạch. Lòng đường phố Tràng Tiền, Hàng Khay đã được mở rộng và rải nhựa, vỉa hè được lát gạch. Nhiều con đường khác được rải đá răm hay gạch vỡ đập vụn rồi đầm phẳng. Tuy nhiên, đường phố Nhà Chung vẫn hẹp, đi lại đôi khi bị tắc nghẽn nên ngày 28-8-1885, cảnh sát phải ra quyết định Nhà Chung là đường một chiều và lối đi thuận bắt đầu từ phố Hàng Khay. Cảnh sát cũng quy định, xe ngựa của dân tránh đi cùng giờ với xe khách. Còn xe khách qua chỗ đông người phải rung chuông nhiều lần.
Báo "Tương lai Bắc Kỳ" số ra ngày 22-8-1885 có bài viết về chuyến xe khách công cộng đầu tiên của Hà Nội: "Những chiếc xe ngựa chở khách đã gây tò mò cho người dân sống hai bên phố". Tác giả bài báo nhận định: "Đây là sự tiến bộ và là tiến trình đi lên của một xứ sở, một dân tộc". Sau khi xe ngựa công cộng ra đời thì Hà Nội cũng xuất hiện những chiếc xe kéo tay và loại xe này nhanh chóng được những người có chức sắc, gia đình giàu có sắm sử dụng riêng. Sự xuất hiện của xe ngựa công cộng và xe tay đã khiến Công sứ Hà Nội ra quyết định phá bỏ các cổng vào các phố Hoa kiều được dựng lên trước đó để thuận tiện cho việc đi lại và tránh tai nạn khi phải qua các cổng chật hẹp. Xe ngựa công cộng ngừng hoạt động vào thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX.
Xe ngựa công cộng dù sao cũng chỉ là giải pháp tạm thời. Để giao thông trong thành phố thuận tiện hơn, Toàn quyền Đông Dương ra quyết định làm đường xe điện ở Hà Nội. Tháng 5-1890, nhà máy tàu điện (không hiểu sao họ lại gọi là nhà máy) đầu tiên ra đời và được đặt tại đầu làng Thụy Khuê. Nhà máy này do Công ty Điền địa Đông Dương thành lập. Vì tàu điện cần phải có đường ray, hệ thống dây điện và cột nên số tiền đầu tư rất lớn. Vì thế công ty xin phép Công sứ cho được đổi đất lấy đường tàu và được chấp thuận. Nghĩa là tùy khu vực công ty được quyền sử dụng đất hai bên đường (nơi có đường ray) để bán hoặc xây dựng nhà cho thuê bù lại số tiền đầu tư. Nhà điều hành chính đặt ở Nhà Tròn (nay là Trung tâm Thương mại đầu phố Đinh Tiên Hoàng). Ngày 13-9-1900, công ty cho chạy thử tuyến đầu tiên Bờ Hồ - Thụy Khuê. Năm 1901 khai trương tuyến Bờ Hồ - Ấp Thái Hà. Sau đó, năm 1915 người ta làm thêm đường vào bến xe Hà Đông. Năm 1906 khai trương tuyến Bờ Hồ - Chợ Mơ. Tại thời điểm đó, các nhà máy phát điện có công suất nhỏ và chỉ phục vụ cho việc thắp sáng đèn đường và nhà công vụ nên công ty xe điện phải sử dụng máy phát điện một chiều. Phục vụ cho việc chạy tàu có 3 máy phát hơi nước nhãn hiệu Alioth Buise công suất 250 sức ngựa và các máy phát này phát ra dòng điện một chiều có điện thế 500-600 vôn.
Tính đến thời điểm này, Hà Nội có 22 đầu kéo, mỗi đầu có công suất 25 mã lực. Năm 1929 khai trương tuyến Bờ Hồ - Đại Cồ Việt và vào năm 1943 thì kéo dài tới trước cổng chính Bệnh viện Bạch Mai. Tuyến Bờ Hồ - Mơ ban đầu là đoạn đường ray đi qua phố Cầu Gỗ, khi chỉnh trang khu vực này thì chính quyền thành phố cho chuyển ra sát mép hồ. Từ bến chính Bờ Hồ, tàu điện tỏa đi 6 hướng: Hà Đông, Cầu Giấy, Mơ, Vọng, Bưởi và Yên Phụ. Có một bài vè về tàu điện: "Thằng Tây ngồi nghĩ cũng tài/ Sinh ra đèn điện thắp hoài năm canh/ Thằng Tây ngồi nghĩ cũng sành/ Sinh ra tàu điện chạy quanh phố phường/ La-ga thì ở Thụy Chương/ Dây đồng, cột sắt thì đường cái quan/ Bồi bếp cho chí bồi bàn/ Chạy tiền ký cược đi làm sơ vơ (người bán và soát vé)/ Xưa nay có thế bao giờ/ Có chiếc tàu điện đứng chờ ngã ba/ Đàn ông cho chí đàn bà/ Hễ tàu vừa đến lấy đà nhảy lên/ Ba xu ghế gỗ rẻ tiền/ Toa sau thì để xếp riêng gánh gồng/ Năm xu ngồi ghế đệm bông/ Hỏi mình có sướng hay không hỡi mình?".
Sau 1954, khi xe buýt Hà Nội chưa ra đời thì tàu điện là phương tiện giao thông công cộng duy nhất. Chuyến tàu đầu tiên trong ngày bắt đầu từ 5 giờ sáng và trên tàu từ Mơ ngược Bờ Hồ toàn các bà mang rau lên bán ở chợ Hàng Bè hay Đồng Xuân. Khách đi tàu tuyến vào Hà Đông, đa phần là sinh viên Tổng hợp. Chuyến ra thường là các bà thu mua lông gà, lông vịt làng Triều Khúc, họ treo thúng mủng ở phía ngoài của toa cuối. Dài ngắn cũng vé đồng hạng 5 xu. Khi đến bến, anh bán vé kéo dây thừng hạ cần tiếp điện để đảo chiều. Tàu có bánh lái, có tay phanh và cần số. Cần số có đầu hình vuông để tra vào lỗ, khi không chạy thì nhấc ra và anh lái tàu luôn mang theo, tránh bị mất. Đặc biệt nhất là chuông điện. Núm dận chuông ngay chỗ lái tàu. Nếu cần báo hiệu cho người đi trong địa phận đường ray phía trước tàu sắp đến, lái tàu chỉ cần dận chân vào núm đồng là tiếng leng keng sẽ phát ra. Trước khi chuyển bánh hoặc đến bến, lái tàu cũng dận chuông. Tàu thường có 2 toa, nhưng cũng có khi là 3 và một người bán vé mà người ta thường gọi là sơ vơ.
Sơ vơ nhảy tàu để chuyển toa cũng thuộc loại điệu nghệ. Theo quy định, tàu chỉ chở người, không hàng hóa cồng kềnh, song các bà bán rau dúi thêm một hào là sơ vơ kẹp vào cặp vé bằng da, đi chỗ khác ngay. Ghế trên tàu bằng gỗ ghép, khách ngồi đối diện mặt nhau. Trên đầu có xà ngang bằng đồng cho những người đứng bám khỏi ngã khi tàu chạy nhanh hoặc phanh gấp. Tàu điện thường đông vì vé rẻ, có chuyến khách bám kín cửa. Thập niên 80, tàu điện vẫn còn là lạ lẫm với người nông thôn lần đầu ra Hà Nội, vì thế bao giờ họ cũng đòi họ hàng cho "ăn kem, xem tàu điện".
Tàu điện là cảm hứng sáng tác cho khá nhiều nghệ sĩ. Họa sĩ Lương Xuân Nhị có một bức rất nổi tiếng về tàu điện ở Bờ Hồ. Nhạc sĩ Hoàng Hiệp trong bài hát "Nhớ về Hà Nội" có câu"... và nhớ tiếng leng keng tàu sớm khuya hướng ra Đống Đa, Cầu Giấy...". Còn nhà văn Nguyễn Tuân có ký. Nhà văn Lê Bầu kể rằng, thập niên thứ 4 thế kỷ trước, ông Phạm Văn Đồng cưới bà Cúc và đón dâu từ Bờ Hồ về Khu Học xá Đông Dương bằng tàu điện tuyến Mơ - Bờ Hồ. Năm 1988, người ta bóc gỡ đường ray, bỏ tàu điện vì cho rằng nó không kinh tế và cản trở giao thông. Rồi họ thay tàu điện chạy trên ray bằng tàu điện bánh lốp chạy theo một lộ trình từ Bờ Hồ qua Hàng Gai - Hàng Bông - Nguyễn Thái Học, sau đó theo Hàng Bột đến Ngã Tư Sở rồi quặt ra đường Láng lại rẽ Ngọc Khánh, Nguyễn Thái Học về Bờ Hồ. Tuy nhiên do vẫn chạy điện nhưng lại phải lái như ô tô mà không có đường riêng nên rất khó khăn cho lái tàu. Nếu tránh các phương tiện có thể bật cần tiếp điện ra khỏi dây. Mặt khác tàu điện bánh lốp không thuận tiện và giá vé lại cao nên ít người đi. Chạy thử nghiệm chưa được một năm, tàu điện bánh lốp bị bỏ luôn.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.