Chính trị

Trường Sa kiêu hãnh tháng Tư

Minh Thúy 29/04/2025 - 17:45

Ngược dòng thời gian của 50 năm về trước, những ngày này quần đảo Trường Sa đang hân hoan trong niềm vui chiến thắng, hòa cùng hào khí giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Đất nước liền một dải, khúc khải hoàn trọn vẹn non sông. Trường Sa ngân mãi niềm kiêu hãnh muôn đời của dân tộc Việt Nam!

7.jpg
Lễ mít tinh kỷ niệm 49 năm Ngày Giải phóng quần đảo Trường Sa (29/4/1975-29/4/2024). Ảnh: MT

Quyết định lịch sử

Trường Sa là một quần đảo nằm ở phía Nam Biển Đông với trên 100 đảo lớn nhỏ và bãi san hô ngầm. Trong số trên 100 đảo lớn nhỏ, vào thời kỳ cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ, chỉ 11 đảo có người. 5/11 đảo do quân ngụy Sài Gòn đóng giữ, gồm: Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn và Trường Sa.

Từ tháng 10-1974, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân qua công tác địch tình đã đề xuất ý kiến giải phóng Trường Sa và được Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhất trí về mặt chủ trương.

Ngày 24-3-1975, sau khi ta giải phóng Buôn Ma Thuột, đồng chí Lê Hữu Đức, Cục trưởng Cục Tác chiến, đề đạt ý kiến với Bộ Tổng tham mưu: Đây là thời điểm thuận lợi cho ta giải phóng các đảo trên quần đảo Trường Sa do quân đội Việt Nam Cộng hòa đang chiếm giữ.

Tại cuộc họp ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị đã đồng ý với kiến nghị của Quân ủy Trung ương và được ghi vào nghị quyết: “Vừa chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, vừa tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo quân ngụy đang chiếm giữ”.

Ngày 30-3-1975, trên cơ sở chủ trương của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương gửi điện cho các đồng chí Võ Chí Công - Chính ủy Quân khu và đồng chí Chu Huy Mân - Tư lệnh Quân khu 5. Trong đó, Thường vụ giao cho Khu ủy và Bộ Tư lệnh B1 nhiệm vụ nghiên cứu, chỉ đạo thực hiện gấp rút, nhằm thời cơ thuận lợi nhất, đánh chiếm các đảo hiện do quân ngụy miền Nam chiếm đóng...

Ngày 2-4-1975, sau khi nghe đồng chí Lê Trọng Tấn, Tư lệnh cánh quân phía Đông báo cáo về thắng lợi của chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ thị: “Tổ chức tiến công giải phóng các đảo, đặc biệt là quần đảo Trường Sa”.

Gần 20 ngày tiến công thần tốc, táo bạo

Trước yêu cầu gấp rút, khẩn trương của Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 phối hợp với Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân nhanh chóng tổ chức lực lượng giải phóng các đảo gồm: Đội 1 - Trung đoàn đặc công 126 do Trung tá Mai Năng chỉ huy; một bộ phận hỏa lực thuộc Tiểu đoàn đặc công nước 471 (Quân khu 5) do đội trưởng Nguyễn Ngọc Quế chỉ huy; Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 38, Sư đoàn 2 bộ binh (Quân khu 5), một bộ phận của Trung đoàn pháo binh 368 do Trung tá Nguyễn Thanh Thí và Thiếu tá, Chính ủy Trần Dược chỉ huy; các tàu vận tải 673, 674, 675 của Đoàn 125 (Hải quân) vừa từ Hải Phòng vào tiếp quản Đà Nẵng do các đồng chí Nguyễn Xuân Thơm, Nguyễn Văn Đức, Phạm Duy Tam làm thuyền trưởng. Các đơn vị này hợp thành Đoàn C75 với gần 300 sĩ quan và chiến sĩ do Trung tá Mai Năng chỉ huy.

Đúng 4 giờ ngày 11-4-1975, các tàu vận tải 673, 674, 675 chở Đoàn C75 bí mật rời quân cảng Đà Nẵng ra đánh chiếm các đảo ở quần đảo Trường Sa. Sau gần 3 ngày hành quân trên biển, Đoàn C75 cách đảo Song Tử Tây vài hải lý. Đồng chí Mai Năng lệnh các tàu thả neo, tiến hành trinh sát nắm tình hình. Ta nhận thấy, trong các đảo do quân đội Sài Gòn chiếm giữ, do có Sở chỉ huy nên đảo Nam Yết mạnh nhất với khoảng 50 binh sĩ. Đảo Song Tử Tây và đảo Trường Sa có khoảng 40 binh lính. Các đảo còn lại khoảng 20 lính, vũ khí trang bị tương đối thô sơ...

Sau khi phân tích, đánh giá lực lượng địch, Đoàn C75 thống nhất đánh chiếm đảo Song Tử Tây trước nhằm làm bàn đạp tấn công các đảo còn lại và đánh giá phản ứng của đối phương. 19 giờ 30 phút ngày 13-4-1975, các tàu di chuyển theo các hướng khác nhau, tàu 673 tiếp cận từ phía Đông, tàu 674 và 675 án ngữ ở phía Tây và phía Nam cách đảo 15 hải lý để đề phòng tàu của quân đội Việt Nam Cộng hòa ở phía Bắc xuống và hai tàu đang đóng ở đảo Nam Yết.

Vào hồi 4 giờ 30 phút ngày 14-4-1975, sau 2 quả đạn B41 được bắn lên đảo, mở đầu trận đánh, các mũi đồng loạt tiến công vào các mục tiêu, công sự của quân đội Việt Nam Cộng hòa ở trên đảo. Do bị tấn công bất ngờ, quân trên đảo chống trả yếu ớt. “Sau 30 phút chiến đấu, ta diệt 6 tên địch, số còn lại tháo chạy tán loạn. Thừa thắng, quân ta tiếp tục truy lùng và gọi hàng, bắt sống 33 tên còn lại trên đảo, thu toàn bộ vũ khí của chúng gồm 1 khẩu ĐKZ, 2 khẩu cối 61mm, 2 đại liên, 2 trung liên, 45 khẩu súng bộ binh và đạn dược”. 5 giờ 15 phút, đảo Song Tử Tây được hoàn toàn giải phóng, lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được kéo lên đỉnh cột, trước bia chủ quyền của đảo.

Bị mất đảo Song Tử Tây, quân đội Việt Nam Cộng hòa điều 2 tàu HQ16 và HQ402 từ Vũng Tàu ra định phản kích chiếm lại đảo. Tuy nhiên, do chưa nắm rõ lực lượng ta, mặt khác, lúc này, trên đất liền, tuyến phòng thủ Phan Rang bị vỡ nên lực lượng đi ứng cứu của quân đội Việt Nam Cộng hòa hết sức hoang mang, dao động, không dám tấn công mà quay về tăng cường phòng thủ đảo Nam Yết.

Sau khi chiếm đảo Song Tử Tây, Bộ Tư lệnh tiền phương ở Đà Nẵng chỉ thị lực lượng canh phòng chặt chẽ, nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, bố trí lực lượng ở lại bảo vệ đảo.

Trước những thắng lợi liên tiếp của ta trên bộ và trên biển, Bộ Tư lệnh tiền phương thống nhất phương án đánh chiếm các đảo còn lại với Bộ Tư lệnh Quân khu 5. Ta sử dụng tàu 673 do đồng chí Nguyễn Xuân Thơm làm thuyền trưởng chở ban chỉ huy chiến đấu và Phân đội 3; tàu 641 do đồng chí Trần Tú làm thuyền trưởng chở Phân đội 2 và Phân đội 4 thuộc Đội 1 Đoàn 126 do đồng chí Đỗ Viết Cường chỉ huy.

Theo kế hoạch, tàu 673 chở quân ra giải phóng đảo Nam Yết, tàu 641 ra đảo Sơn Ca. Chiều 24-4-1975, hai tàu chở lực lượng chiến đấu tập kết hai vị trí khác nhau. Đêm 24-4-1975, khi tàu 673 vào gần đảo Nam Yết thì phát hiện có một tàu khu trục của quân đội Việt Nam Cộng hòa đang hoạt động ở đó. Thấy không bảo đảm yếu tố bí mật nếu tiến hành đổ bộ lên đánh chiếm đảo, đồng chí Mai Năng cho tàu 673 quay về đảo Song Tử Tây chờ thời cơ.

2 giờ 30 phút ngày 25-4-1975, tàu 641 chở lực lượng đánh chiếm đổ bộ lên đảo Sơn Ca và nổ súng tấn công. Sau 30 phút chiến đấu, lực lượng đổ bộ Quân Giải phóng miền Nam hoàn toàn làm chủ đảo Sơn Ca.

Lúc này, lực lượng của địch đóng trên các đảo còn lại hoang mang, mất tinh thần chiến đấu, đồng thời được lệnh rút ra tàu bảo vệ, chạy khỏi đảo. Chớp thời cơ này, Bộ Tư lệnh tiền phương chỉ thị cho đồng chí Mai Năng đang trên tàu 673 ở Song Tử Tây lập tức giải phóng các đảo còn lại. 1 giờ 30 phút ngày 27-4-1975, tàu 673 chở lực lượng đánh chiếm rời đảo Sơn Ca hướng về đảo Nam Yết. 10 giờ 30 phút cùng ngày, tàu 673 đến đảo Nam Yết. Một bộ phận của Phân đội 3 nhanh chóng đổ bộ chiếm giữ đảo. 11 giờ 30 phút ngày 27-4-1975, ta hoàn toàn làm chủ đảo Nam Yết.

Sau khi chiếm đảo Nam Yết, tàu 673 tiếp tục đưa một bộ phận lực lượng đi chiếm đảo Sinh Tồn. 10 giờ 30 phút ngày 28-4-1975, do địch đã bỏ chạy, ta làm chủ đảo Sinh Tồn. Ngày 29-4-1975, ta tiếp tục giải phóng đảo Trường Sa.

Như vậy, sau gần 20 ngày chuẩn bị và chiến đấu, phát huy khí thế tiến công thần tốc, táo bạo, lực lượng được cử đi giải phóng đảo đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, giải phóng toàn bộ các đảo.

Đúng một ngày sau khi các đảo trên quần đảo Trường Sa được giải phóng, vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giành thắng lợi. Đất nước liền một dải từ Bắc đến Nam.

Vững mạnh Trường Sa

Trải qua 50 năm kể từ ngày giải phóng, đến nay, diện mạo của huyện đảo Trường Sa được đổi mới từng ngày, khang trang hơn. Nhiều công trình như: Cầu cảng, sân bay, âu tàu, trạm hải đăng, đài khí tượng thủy văn, hệ thống năng lượng sạch, máy phát điện bằng sức gió… đã được xây dựng. Những công trình tạo thuận lợi cho quân - dân huyện đảo và ngư dân phát triển kinh tế biển, kết hợp giữa kinh tế - quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, góp phần cùng quân, dân huyện đảo nâng cao năng lực bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Các công trình: Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đài tưởng niệm liệt sĩ, Nhà khách Thủ đô, chùa Trường Sa, chùa Song Tử, Sinh Tồn, Nhà văn hóa đảo Nam Yết, Nhà văn hóa đảo Song Tử, Nhà cộng đồng đảo Đá Tây... là nơi giao lưu, sinh hoạt văn hóa tinh thần, giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc cho quân, dân huyện đảo.

Phát huy truyền thống, 50 năm qua, quân và dân trên quần đảo Trường Sa luôn khắc sâu và ghi nhớ lời căn dặn của cố Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh, khi thăm Trường Sa tháng 5-1988: ... xin thề trước hương hồn của tổ tiên, trước hương hồn của cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với thế hệ mai sau “quyết tâm bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta”.

Trường Sa kiên trung, hiên ngang và bất khuất - niềm kiêu hãnh trong lòng mỗi người con đất Việt!

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Trường Sa kiêu hãnh tháng Tư

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.