Khu mộ cổ Đống Thếch (Hòa Bình), di tích quý đang dần mai một theo thời gian.(HNM) - Hòa Bình là cái nôi của văn hóa Mường. “Nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động”, đấy là lời truyền miệng của dân gian khi nói về xứ Mường. Ngày nay, đất xưa giờ đã đổi tên, những đời quan lang, tù trưởng... giờ đã thành huyền thoại.
Dấu xưa
Chúng tôi có mặt tại Chiềng Động (xã Vĩnh Đồng, Kim Bôi, Hòa Bình) vào một buổi trưa nắng mùa đông hanh hao. Chủ tịch xã Bùi Văn Lâm dẫn chúng tôi xuống khu mộ cổ nằm lẻ loi giữa bạt ngàn đồi núi. Con đường vào bị khỏa lấp bởi cỏ dại, nếu không được anh Lâm giới thiệu, khó ai có thể biết nó dẫn tới một trong 31 điểm di tích quốc gia của tỉnh Hòa Bình. Trong yên ắng đến tĩnh mịch, những cột đá ủ dột đứng như “trời trồng”, dãi dầm mưa nắng, qua bao sương gió. Đây là thế giới bên kia của những quan lang, cậu cả... người Mường cổ. Nó hé lộ một tập tục mai táng huyền bí của người Mường cách đây hàng trăm năm. Độ cao, thấp của các cột đá nói lên danh phận của chủ nhân trong xã hội Mường xưa. Theo lời kể của người dân bản địa, vài chục năm trước, Đống Thếch còn là một rừng mộ bạt ngàn với hàng ngàn cột đá cao ẩn náu trong những rừng cây rậm rạp, hoang vu. Thuở ấy, những điều huyền bí mà khu mộ cất giữ đã trở thành nỗi niềm ám ảnh và sợ hãi của người dân. Với họ, Đống Thếch vừa gần gũi vừa xa lạ, vừa tôn nghiêm ẩn bao huyền thoại.
Những gì đang còn lại là kết quả của quá trình trùng tu do Sở Văn hóa Hòa Bình thực hiện, Bảo tàng Hòa Bình là đơn vị trực tiếp thi công. Cột đá duy nhất còn những ký tự chữ Mường (tương truyền là mộ của quận công Đinh Công Kỷ) bình lặng dưới gốc cây xoan vừa mới lên vượt ngọn. Cây cối xưa đã bị đốn hạ hết. Lô nhô những cột đá đã bị biến dạng nằm chen giữa những gốc ngô, gốc sắn.
Trong tiếng Mường, “đống” chỉ những nơi có mồ mả, còn “Thếch” là địa danh chỉ vùng đất. Thời Lê, khu mộ Đống Thếch thuộc tổng Kim Bôi - huyện Mỹ Lương - phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Khi đó, tổng Kim Bôi gồm 4 xã: Kim Bôi, Nật Sơn, Hà Bì và Vĩnh Đồng. Dưới thời Lê Trung Hưng, Đinh Công Kỷ có công phò vua chống giặc và xây dựng triều chính nên ông được vua phong tước Quận công, lấy hiệu Đinh Công và đời đời được cắt đất làm phiên thần. Bắt đầu từ cuối thế kỷ XVI, Mường Động đặt dưới sự trị vì của dòng họ Đinh, phát triển trở thành một trong bốn xứ Mường lớn nhất. Khi Đinh Công Kỷ mất, thủ tục mai táng ông được thực hiện tương xứng với tước hầu: quan tài bằng gỗ trám đen (loại gỗ quý trong vùng), ngoài sơn son thếp vàng kèm theo nhiều đồ đạc quý. Nhà Lê cũng đích thân cho chuyển những phiến đá xanh từ Thanh Hóa ngược sông Mã để dựng bia mộ cho ông. Theo dòng lịch sử, theo sự chìm nổi của dòng họ Đinh, “thánh địa” Đống Thếch “bất khả xâm phạm” vào thế kỷ XVII khi tiếng tăm của dòng họ Đinh lừng lẫy và thịnh trị nhất về quyền lực, sau đó nó chỉ còn là một thời vang bóng, cho nên, nó đón nhận thêm những chủ nhân mới về Mường ma. Vai trò của nó mờ nhạt dần, những truyền xưa, tích cũ cũng dần trôi vào hoài niệm.
Thuở trước, Đống Thếch rộng hàng vạn mét vuông gối đầu trên thung lũng Mường Động. Tương truyền, khu đất ở địa thế hàm rồng, nhà lang mới độc chiếm để đời đời giữ nghiệp bá vương. Đứng ở khu mộ A, phía Bắc là núi Chùa Cũ, phía Tây là đồi Ông Nội, phía Nam là Nà Thếch và suối Thếch, phía Đông là ruộng Pạng Đông - điền thổ phì nhiêu nhất của xứ Mường Động. Trước năm 1975, khu mộ vẫn còn nguyên vẹn với hàng ngàn cột đá dày đặc như chông. Bắt đầu từ thời điểm cuối năm 1984, người dân trong vùng bắt đầu đào bới để tìm cổ vật. Người ta đốn hạ những cột đá sừng sững uy nghiêm làm hòn kè ruộng, đào bới mộ huyệt để lấy những đồ vật táng theo người chết. Đồ vật đào được đem bán cho tư thương, những kẻ săn đồ cổ mãi Hà Nội, Trung Quốc... Người ta vẫn còn truyền nhau câu chuyện ông Bình, ông Cường đào được chiếc vò đời Đường, bán được 9,5 triệu. Ông phải mang cả quang gánh ra để đựng vì toàn tiền lẻ. Còn những bát đĩa, ấm quả dưa, ấm quả bòng, ấm tỳ bà... thì nhiều vô kể. Trong số 9 chiếc trống đồng đào được ở khu mộ, hiện tại đã bị mất 5 chiếc do kẻ gian đột nhập vào phòng cất giữ của UBND xã. Câu chuyện đó anh Lâm kể vớinụ cười méo mó, cũng chỉ vì lý do xã nghèo không có kinh phí để xây dựng một phòng trưng bày cổ vật tử tế.
Theo tập tục, mộ táng được xếp đặt theo những mô hình rất chặt chẽ: Những hòn mồ tròn hoặc dẹt được tạo dáng chôn thành những hàng rào vây quanh mộ. Trên một số hòn mồ được chọn để khắc chữ Hán ghi lại tên tuổi, công trạng, ngày tùy táng của chủ nhân. Thường chúng được để tự nhiên, nếu gọt đẽo cũng hết sức sơ sài. Đầu mộ được chôn ba hòn đá cao, to nhất thành một hàng thẳng. Chân mộ chôn ba hòn đối xứng. Hai bên sườn mộ là những hòn mồ cao thấp, không đều nhau và số lượng không hạn định. Trên mồ, người ta đổ than củi dày đặc để bảo quản xác. Với người Mường, người chết trở về Mường ma, đó là thế giới thực, thế giới của tổ tiên, cha ông nên những cột đá là sợi dây linh thiêng để nối cõi đất với cõi trời. Người Mường kỵ mái che, vì như thế linh hồn không được siêu thoát... Những điều huyền diệu ấy là cả một thế giới tâm linh mà hậu thế không thể lý giải được.
Ông Quách Văn ảnh, giám đốc Bảo tàng Hòa Bình, là một người con xứ Mường yêu tha thiết những nền văn hóa cha ông, người miệt mài với những công trình khảo cứu và đang có những dự án đồ sộ để lưu giữ nền văn minh xưa cũ. Ông xót xa trước sự can thiệp muộn màng của con người. Sau nhiều lần bị trì hoãn, việc khai quật để tìm hiểu, nghiên cứu và bảo tồn những di vật còn sót lại của mộ Mường chỉ được thực hiện khi thánh địa đã bị đào bới, bị tàn phá. Trong thuật ngữ chuyên môn mà ông nhắc đến, đó là việc “khai quật chữa cháy”. Sau khi đoàn khảo sát khai quật 15 ngôi mộ nằm ở khu A và 7 ngôi mộ nằm ở khu B, người ta mới sửng sốt vì những giá trị mà nó cất giữ đồ sộ quá, nhưng tiếp sau đó là sự bàng hoàng vì những gì còn sót lại quá ít ỏi. Lý giải cho hành động đào bới của người dân, đó là vì miếng cơm manh áo, nhưng sâu xa đó là sự kém hiểu biết và sự lạnh lùng với quá khứ. Ông còn cho biết, với khoản tiền ít ỏi mà UBND tỉnh Hòa Bình dành cho công tác trùng tu, bảo quản những di tích văn hóa trên đất Mường còn mong manh quá. Tổng kinh phí đầu tư cho việc trùng tu, bảo quản khu mộ cổ là hơn 600 triệu, thế nhưng thực tế mới “rót xuống 140 triệu. Việc trùng tù, bao quản cũng chỉ dừng lại ở việc dựng lại những cột đá, khoanh vùng khu di tích bằng hàng tường bao, xây dựng nhà bảo vệ. Thế nhưng, trên thực tế, nhà bảo vệ cũng chỉ là ngôi nhà hoang vắng, không có đồ đạc để ở, chế độ dành chođội bảo vệ cũng chẳng có gì. Thành thử, UBND xã sở tại đã “linh động” cho phép những người trông giữ khu mộ được trồng ngô, trồng sắn bên những khoảng đất trống thay vì “trả lương” bằng tiền. Thực tế ấy đã khiến cho việc bảo vệ di tích văn hóa Mường này rất khó khăn. Cũng theo ông ảnh, không chỉ riêng khu mộ cổ Đống Thếch mà hầu hết các di tích khác trên địa bàn Hòa Bình đều đang ở tình trạng nguy cấp, không có kinhphí, sự lỏng lẻo trong công tác quản lý của các ban ngành liên quan đang bỏ rơi các di tích. Rồi ông thở dài, cái thở dài buồn thương cho những nét cũ của xứ Mường đang dần dần mai một.
Đống Thếch bây giờ không còn là điều bí ẩn đối với những đứa trẻ như anh Lâm ngày trước. Phải làm gì với những gì còn sót lại? Không chỉ đối với những cây cột đá nhà mồ nơi Mường ma của người Mường mà còn rất nhiều những giá trị xưa cũ đang ngủ quên ?
Trung Kiên
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.