Hình ảnh, không khí xuân mới sẽ trở nên tẻ nhạt nếu thiếu những bức tranh. Chơi tranh Tết là một thú vui - nhu cầu - phong tục cổ truyền rất đẹp của nhân dân ta. Vừa hồn nhiên, tươi sáng, sống động, vừa lắng đọng, đậm đà chất dân tộc. Tranh Tết thể hiện sâu sắc giá trị thẩm mỹ, triết lý xã hội và ý nghĩa nhân văn.
Tranh Đông Hồ. Ảnh: P. Thảo
Theo quan niệm truyền thống của người Việt Nam, trong nhà dịp Tết thường phải có tranh treo để cảnh sắc thêm vui tươi, rực rỡ, con người thêm sảng khoái, giàu sức sống và xua đi những điều ám muội, rủi ro. Tranh Tết chính là hình ảnh cô đọng của sinh hoạt hàng ngày - người ta thường ngắm nó mà nhớ lại năm qua và hình dung những gì sẽ gặp, sẽ làm trong năm tới. Tranh Tết còn thể hiện những ước vọng về một cuộc sống thuận hoà, khỏe mạnh, hạnh phúc... cùng khát khao hướng tới Chân - Thiện - Mỹ.
Tranh Tết có đủ loại, dùng cho nhiều đối tượng và mục đích: tranh thờ, tranh đố, tranh cầu lộc, tranh người lớn, tranh trẻ em... Những gia đình trí thức thường thích tranh bộ: Nhị bình - 2 bức (như chim công múa - cá chép trông trăng), Tứ bình - 4 bức (như mai – lan - cúc trúc tượng trưng cho 4 mùa hoặc 4 tố nữ chơi đàn - thổi sáo - gõ phách - ca hát). Nhiều người lại chuộng tranh Trung Quốc vẽ cảnh trong các pho truyện nổi tiếng: Chinh đông - Chinh tây, Tam quốc diễn nghĩa... Phần lớn các gia đình nông dân thích treo những bức tranh dân gian cổ truyền thuộc nhiều đề tài, thoả mãn đồng thời nhiều nhu cầu. Ngoài cổng, có nhà dán 2 bức vẽ: một bên là ông Tiến Tài, bên kia là ông Tiến Lộc, trang phục đều kiểu quan văn, mặt hồng hiền từ, mỗi vị mang một tấm biển (Tiến tài, Tiến lộc) - với mong ước năm mới sẽ làm ăn phát đạt. Có nhà thì dán cặp tranh thần Vũ Đinh và Thiên ất, đều mặc võ phục, cầm long đao, mặt đỏ, mắt xếch, trông rất uy nghi - với mong ước năm mới ma quỷ sẽ sợ, không dám đến quấy nhiễu.
Trong nhà, treo, dán nhiều tranh hiền lành và ngộ nghĩnh hơn. Tranh Gà trống sặc sỡ và oai vệ, tượng trưng cho ngũ quý - 5 đức tính quí báu: văn (vẻ đẹp, mào gà), vũ (cựa gà, vũ khi), nhân (biết thương yêu đồng loại, kiếm được thức ăn ngon là gọi bầy đàn đến), dũng (gặp kẻ thù là sẵn sàng giao chiến), tín (hàng ngày gáy báo giờ rất đúng, giữ chữ "tín" từ hành động bình thường nhất). Tranh Mẹ con đàn gà và Mẹ con đàn lợn thể hiện cảnh sinh hoạt dân dã cùng mơ ước gia đình đông vui, thuận hoà. Tranh Hứng dừa lại
Loại tranh lịch sử như Trưng Trắc cưỡi voi đuổi giặc, Ngô Quyền đánh quân Nam Hán, Đinh Bộ Linh cờ lau tập trận... cũng rất được ưa chuộng trong dịp Tết vì nó tạo cảm giác ấm áp, hùng tráng và linh thiêng. Còn nhà nào nhiều trẻ con thì lại thường chơi các tranh: Phú quý (vẽ hình đứa bé tóc trái đào, đang giữ con vịt), Vinh hoa (cũng vẽ đứa bé như vậy, nhng không giữ con vịt mà giữ gà trống), Thất đồng (7 cậu bé đang hồn nhiên hái quả) Tử tôn vạn đại (4 em bé nô đùa vui với những dây bầu trĩu quả)…
Đặc biệt, từ lâu con rồng (long) đã trở thành đề tài phổ biến, hấp dẫn của tranh Tết. Biểu tượng cho sự cao quí, kỳ diệu, may mắn, thành đạt, mạnh mẽ, sức vươn lên bất diệt và những gì tết đẹp nhất, rồng là đối tượng cuốn hút mãnh liệt cảm hứng sáng tác của các hoạ sĩ. Có loại tranh rồng tổng hợp: vẽ rồng cùng quan hệ, sinh hoạt của nó (như: rồng và phượng, rồng và người, rồng thua ma hoặc khạc lửa, múa rồng...). Lại cũng có loại tranh rồng thuần tuý: chỉ vẽ rồng - có thể là một rồng (đơn long) hay nhiều rồng (đa long). Tranh rồng thường là tranh thờ hoặc tranh chơi, với nền phông phổ biến vẽ mây hoặc nước. Tranh Lưỡng long triều nhật (đôi rồng chầu mặt trời), Lưỡng long triều nguyệt (đôi rồng chầu mặt trăng) tượng trưng cho sự hoàn hảo, cân bằng của vũ trụ và nhân gian. Tranh Lý ngư hoá long diễn tả sự thành công vượt bậc nhưng xứng đáng - tựa việc con cá chép qua 5 lần thử thách đặc biệt mới thoát xác thành rồng. Tranh Cửu long tranh châu vẽ 9 con rồng đang vờn chiến quanh một viên ngọc, như 9 người hùng cùng đọ tài để đoạt vật báu duy nhất.
Tranh Phụng long lại khắc hoạ cảnh quấn quít giữa rồng và phượng - tiêu biểu cho hạnh phúc của một cặp vợ chồng thượng lưu. Tranh Múa rồng thật tưng bừng với cảnh rước hình rồng và nhảy múa - một trò chơi phổ biến trong những ngày lễ tết truyền thống. Tranh Đinh Bộ Linh cưỡi rồng qua sông thì diễn tả sự tích lịch sử độc đáo: thuở nhỏ, Đinh Bộ Lĩnh vì giết trâu của chú khao bạn bè nên bị chú đuổi đánh. Chạy đến bờ sông, đang lúc cùng đường bỗng một con rồng vàng nổi lên cõng Đinh Bộ Lĩnh sang sông! Người chú kinh ngạc, cho đó là điềm quý báo hiệu cháu mình sau này sẽ làm vua, liền cắm dao xuống đất, vái lạy rồi quay về. Bức tranh vẽ một con rồng vàng dũng mãnh đang gồng mình bơi, trên lưng là Đinh Bộ Lĩnh vểnh mặt vừa hồn nhiên vừa oai nghiêm nhìn cảnh ông chú khúm núm đứng chắp tay ven bờ... Đối với nhiều dân tộc thiểu số Việt nam (Tày, Nùng, Thái...), rồng được coi là thần linh nên trở thành đối tượng không thể thiếu trong tranh thờ ngày Tết của họ - phổ biến nhất phải kể đến tranh Long ngâm vẽ một con rồng đang tung mình, giương vây, xoè chân, thể hiện uy linh đấng hộ mệnh và ban phúc; tranh Công Tào vẽ các sứ giả nhà Trời cưỡi rồng thiêng bay khắp nơi để nhận, chuyển những lời cầu nguyện, mong ước của mọi gia đình tới Ngọc Hoàng Thượng đế.
Có nhiều nơi làm tranh Tết, nhưng nổi tiếng vẫn là phố Hàng Trống (Hà Nội) và làng Đông Hồ (Bắc Ninh). Tranh Hàng Trống thuộc loại tranh thờ (vẽ hổ, rồng, thần thánh...); kỹ thuật làm kết hợp đường nét in đen từ bản khắc gỗ với việc tô mầu phẩm bằng tay, dùng bút mềm quét phẩm nước, luôn tạo được những chuyển sắc đậm nhạt tinh tế, màu vẻ linh động. Tranh Đông Hồ toàn diện hơn với rất nhiều thể loại; in bằng tay trên bản gỗ nổi - mỗi màu in có ván khắc riêng (đôi khi tô màu phẩm bằng tay); giấy in là giấy dó, thường quét phủ một lớp phấn điệp hơi óng ánh; màu in rực rỡ, chế từ nguyên liệu thiên nhiên dễ kiếm (màu đen chế từ lá tre khô, vàng từ hoa hoè hay quả dành dành, xanh từ lá chàm, trắng từ vỏ sò nghiền mịn, đỏ tươi từ bột son…). Nhìn chung, các công đoạn kỹ nghệ làm tranh Tết đều khá phức tạp, đòi hỏi cao độ sức lao động sáng tạo và tài hoa nghệ nhân.
Còn về mâm ngũ qủa thì cứ mỗi năm, vào dịp Tết Nguyên đán, trên bàn thờ gia đình người Việt đều phải bày một mâm ngũ quả. Mầu sắc rực rỡ, hình dáng độc đá, mang những ý nghĩa sâu xa làm cho ngày Tết càng sinh động hơn, thiêng liêng hơn...
Theo quan niệm của người phương Đông xưa, thế giới được tạo nên từ 5 bản nguyên - gọi là "ngũ hành": kim (kim loại), mộc (gỗ), thuỷ (nước), hoả (lửa), thổ (đất). Tư tưởng cùng hình ảnh "ngũ hành" xâm nhập sâu sắc vào đời sống văn hoá vật chất và tinh thần của các dân tộc phương Đông với rất nhiều biểu hiện - một trong số đó là tục lệ thờ mâm ngũ quả ngày Tết của người Việt
Mâm ngũ quả truyền thống của người Việt chỉ gồm 5 loại quả, được xếp kiểu hình tháp lên đĩa to hoặc mâm, đặt trên bàn thờ. Ngày nay, cuộc sống hiện đại cùng sự giao lưu phong tục làm cho mâm ngũ quả ít nhiều biến đổi: số quả có thể nhiều hơn 5, cách xếp tự do hơn, trang trí hoa lá, cắm nến để tạo ánh sáng, kết những dây đèn điện tử nhiều màu xung quanh... Tất cả các loại quả trong dịp Tết đều có thể đem bày: chuối, bưởi, phật thủ, dưa hấu, cam, quýt, dừa, na, trứng gà, hồng xiêm, táo.... Mỗi loại quả mang một ý nghĩa riêng: nải chuối, phật thủ như bàn tay che chở; bưởi, dưa hấu căng tròn, mát lành hứa hẹn năm mới đầy ngọt ngào, may mắn; hồng, quýt rực lên màu sắc mạnh mẽ tượng trưng cho sự thành đạt…
Mâm ngũ quả ở miền Bắc nhìn chung nhỏ hơn mâm ngũ quả ở miền
Mâm ngũ quả làm cho quang cảnh Tết và không gian thờ cúng thêm ấm áp, rực rỡ mà hài hoà với màu xanh mát của dưa hấu, đỏ rực của hồng, nâu mịn của hồng xiêm, vàng tươi của bưởi, cam, dứa... Nó thể hiện sinh động ý nghĩa triết học - tín ngưỡng - thẩm mỹ ngày Tết cùng những ước vọng lạc quan mà mỗi gia đình mang theo khi bước vào năm mới.
Xuân Tâm
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.