Nước tiểu là chất thải do cơ quan tiết niệu (gồm thận, bàng quang, các ống dẫn tiểu và thoát tiểu). Ở người bình thường, nước tiểu có màu trắng, trong, có mùi amoniac nhẹ.
Làm sao nhận biết nước tiểu có máu?
Tiểu có máu là tình trạng có sự hiện diện bất thường của hồng cầu (thành phần của máu, có màu đỏ) trong nước tiểu. Khi số lượng hồng cầu nhiều, nước tiểu có màu đỏ hồng hoặc đỏ tươi. Tình trạng tiểu có máu toàn phần này tương đối dễ nhận biết bằng mắt thường.
Khi nước tiểu chỉ có một số lượng hồng cầu ít, nước tiểu có màu nâu đậm (như màu nước trà đậm) hoặc có màu hồng nhạt. Việc xác định tiểu có máu phải nhờ xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu.
Nguyên nhân có thể gây nên tình trạng tiểu có máu ở người cao tuổi?
Bên cạnh một số nguyên nhân dễ nhận biết như: bị chấn thương vùng bụng, vùng hông lưng làm tổn thương thận, dập bàng quang, đứt ống dẫn tiểu thì việc uống thuốc cũng làm nước tiểu màu hồng nhợt như: rifamicin, cyclophosphamid hoặc ăn củ dền, canh rau mồng tơi màu đỏ.
Một số bệnh nhiễm khuẩn hệ tiết niệu như: nhiễm trùng đường tiểu, viêm cầu thận, viêm bàng quang... hoặc bệnh sỏi thận, sỏi bàng quang, bệnh thận đa nang…
Một số bệnh về máu như: bệnh thalassemia, bệnh hemophilia… Đặc biệt, có khoảng 10% trường hợp tiểu có máu xảy ra ở người cao tuổi (hơn 60 tuổi) là dấu hiệu ban đầu của bệnh ung thư (UT) hệ tiết niệu như: UT thận, UT bàng quang, UT tiền liệt tuyến.
UT thận
Có khoảng 40% trường hợp UT thận có khởi bệnh là tiểu có máu. Bệnh thường gặp ở đàn ông trên 50 tuổi, nhiều hơn phụ nữ và 90% là dạng carcinoma tế bào thận.
UT thận thường thấy ở cực trên của thận, sau đó xâm lấn vỏ bao thận, di căn đến các hạch vùng rốn thận. Ở giai đoạn trễ, bệnh lan tràn di căn xa đến gan, phổi, xương…
Về mặt triệu chứng bệnh UT thận, người bệnh có tiểu ra máu (chiếm 38%), đau hông lưng (45%), sụt cân (16%), mệt mỏi, sốt dai dẳng, khối u hông bụng (24%).
Việc định bệnh UT thận dựa vào các chẩn đoán hình ảnh như: siêu âm bụng, chụp CT-scan bụng chậu (có giá trị định bệnh 93%), chụp X-quang bụng, chụp hệ tiết niệu có cản quang (UIV).
Đôi khi, kỹ thuật chọc hút sinh thiết khối u bằng kim nhỏ (FNA) cũng được thực hiện để xác định chính xác tính chất ác tính của khối u thận.
Kế hoạch điều trị tùy theo giai đoạn tiến triển bệnh:
- UT thận giai đoạn sớm (I, II): chủ yếu là mổ cắt bỏ thận có khối u và nạo lấy hạch vùng rốn thận nếu có. Kết quả: có khoảng 70 - 75% người bệnh sống thêm 5 năm sau điều trị.
- UT thận giai đoạn trễ (III, IV): sau mổ cắt thận và nạo hạch vùng rốn thận, cần điều trị bổ túc thêm. Thuốc hóa trị và xạ trị ít hiệu quả. Hiện nay, thuốc mới thuộc nhóm liệu pháp nhắm trúng đích như sorafenib (nexavar) đã cải thiện thời gian sống thêm cho người bệnh UT thận có di căn xa. Tỉ lệ sống thêm 3 năm sau điều trị khoảng 10%.
UT bàng quang
Đây là dạng UT hay gặp ở các ông trên 50 tuổi và có thói quen nghiện hút thuốc lá nhiều, lâu ngày hoặc có thời gian tiếp xúc lâu dài với hóa chất nhuộm anilin, các hợp chất amin thơm, các hóa chất trong công nghiệp chế tạo cao su… 90% trường hợp UT bàng quang có dạng carcinoma tế bào chuyển tiếp. Bên cạnh tiểu có màu đỏ máu, người bệnh UT bàng quang thường có thêm các triệu chứng khác như: tiểu gắt đau, tiểu lắt nhắt hoặc tiểu khó, không đi tiểu được (bí tiểu).
Việc chẩn đoán xác định bệnh dựa trên: siêu âm bụng chậu, chụp X-quang bàng quang có cản quang, chụp Ctscan bụng chậu, nội soi bàng quang và sinh thiết khối u.
Kế hoạch điều trị tùy thuộc giai đoạn bệnh:
- Khối u nông, còn khu trú ở lớp niêm mạc bàng quang: chủ yếu là cắt đốt khối u qua nôi soi và bơm thuốc hóa trị vào bàng quang.
- Khi khối u to, lan rộng, ăn lấn qua lớp cơ hoặc thành bàng quang: việc điều trị bao gồm cắt bỏ một phần hoặc toàn phần bàng quang, kết hợp với hóa trị và xạ trị sau mổ.
Kết quả điều trị kém, vì đa số UT bàng quang được phát hiện chẩn đoán bệnh trễ.
UT tiền liệt tuyến (TLT)
Là dạng UT rất phổ biến ở các ông trên 60 tuổi và hơn 90% thuộc dạng carcinoma tuyến. Y học đã xác lập được mối liên hệ của lượng androgen (dihydroandrogen) và sự phát triển UT TLT. Đa số bệnh khởi phát âm thầm với một khối u cứng ở vùng ngoại biên thùy sau của TLT. Khối u to dần, xâm lấn vỏ bao, chèn ép các cơ quan lân cận như: niệu quản, bàng quang, trực tràng… gây nên cảm giác tiểu gắt, tiểu nhiều lần, tiểu có máu hoặc bí tiểu. Về sau, bệnh lan tràn di căn đến xương chậu, xương sống. Người bệnh đau nhức xương nhiều, không đứng hoặc không thể đi lại được.
Việc chẩn đoán bệnh dựa trên: thăm khám TLT bằng ngón tay qua trực tràng, siêu âm và chọc hút sinh thiết khối u qua ngả trực tràng, chụp X-quang xương, xạ hình bộ xương. Định lượng PSA trong máu có giá trị tầm soát, chẩn đoán và theo dõi điều trị UT TLT.
Kế hoạch điều trị cũng tùy thuộc giai đoạn bệnh:
- Ở giai đoạn sớm, khối u nhỏ và khu trú: phẫu thuật cắt bỏ TLT tận gốc là quan trọng. Xạ trị toàn phần cũng cho kết quả tương tự nếu người bệnh không thể chịu được cuộc mổ. Hiện nay, kỹ thuật mổ qua nội soi cắt bỏ TLT đã làm giảm các biến chứng sau mổ so với phương pháp mổ hở. Điều trị bổ túc với các thuốc nội tiết là cần thiết. Tỉ lệ sống thêm 5 năm đạt hơn 90%.
- Ở giai đoạn muộn, có di căn xương: việc chữa trị chủ yếu là giải thoát đường tiểu bằng kỹ thuật cắt đốt nội soi, điều trị nội tiết (cắt bỏ hai tinh hoàn, dùng thuốc kháng androgen). Chỉ khoảng 25 - 30% người bệnh có thời gian sống thêm 5 năm.
Tiểu ra máu là một triệu chứng báo động UT
Ở người cao tuổi (trên 60), 10% các trường hợp tiểu ra máu có căn nguyên từ bệnh UT hệ tiết niệu. Vì vậy, người bệnh cần cảnh giác nếu có thêm các triệu chứng đi kèm như:
- Tiểu ra máu đỏ hồng, tái đi tái lại nhiều lần mà không có tiền sử bị chấn thương bụng.
- Có thêm một trong số các triệu chứng: sụt cân, sốt kéo dài, mệt mỏi vô cớ, tiểu gắt hoặc tiểu khó, bí tiểu, đau tức hông lưng kéo dài, có khối u vùng hông bụng…
Cần đi khám bệnh ngay ở một cơ sở y tế, bệnh viện có chuyên khoa tiết niệu hoặc ung bướu để sớm phát hiện chẩn đoán UT và điều trị kịp thời.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.