(HNM) - Thành phố Hà Nội vừa ban hành Quy hoạch phát triển công nghệ thông tin (CNTT) đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 với ưu tiên số một cho việc ứng dụng CNTT, phấn đấu đi đầu cả nước về phát triển kinh tế tri thức và xã hội thông tin trên cơ sở hạ tầng đô thị "thông minh".
Với bản quy hoạch này, cùng với những lộ trình cụ thể, trong tương lai gần, Hà Nội sẽ trở thành một trong những thành phố phát triển về chính quyền điện tử, trung tâm về công nghiệp CNTT. Báo Hànộimới đã có cuộc trao đổi với ông Tô Văn Động - Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông Hà Nội về nội dung của quy hoạch quan trọng này.
Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông Hà Nội Tô Văn Động. |
Công cụ đắc lực phục vụ cải cách hành chính
- Thưa ông, trước tiên, xin chúc mừng Sở TT&TT Hà Nội đã có những đóng góp quan trọng, giúp cho bản quy hoạch sớm được phê duyệt và hơn nữa đã định hình được con đường phát triển của CNTT tại Thủ đô trong hơn một thập niên tới. Trước khi có bản quy hoạch này, Hà Nội cũng đã từng ban hành nhiều chương trình, kế hoạch triển khai ứng dụng CNTT, nhất là trong lĩnh vực cải cách hành chính (CCHC). Vậy nhìn lại, chúng ta đã làm được những gì thưa ông?
- Với vị thế là một trung tâm khoa học - công nghệ hàng đầu cả nước, Hà Nội có điều kiện thuận lợi để phát triển CNTT, nhưng đồng thời đây là yêu cầu cấp thiết của Thủ đô trong giai đoạn phát triển mới. Nhiều nhiệm kỳ qua, Đảng bộ TP đã ban hành chương trình đẩy mạnh phát triển CNTT. Ngay trong nhiệm kỳ 2010-2015, Thành ủy đã ban hành Chương trình số 08-Ctr/TU ngày 18-10-2011 về đẩy mạnh CCHC, nâng cao trách nhiệm và chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức, viên chức giai đoạn 2011-2015. UBND TP cũng có Kế hoạch CCHC nhà nước giai đoạn 2011-2015, trong đó xác định “Đẩy nhanh ứng dụng CNTT trong hoạt động quản lý điều hành, giải quyết thủ tục hành chính và xây dựng chính quyền điện tử” nhằm xây dựng chính sách đồng bộ về ứng dụng CNTT trong các cơ quan hành chính từ thành phố đến quận, huyện, thị xã và xã, phường, thị trấn. Thứ hai là phát triển và hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật thông tin, bảo đảm cho các hoạt động ứng dụng CNTT trong các cơ quan, đơn vị trên môi trường mạng được an toàn, hiệu quả. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin, các cơ sở dữ liệu lớn, trước hết tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu về dân cư, quy hoạch, tài nguyên, môi trường... Đặc biệt, Hà Nội coi CNTT là công cụ phục vụ đắc lực cho công tác CCHC. Công dân, doanh nghiệp thông qua việc ứng dụng CNTT để công khai hóa thông tin, nâng cao hiệu quả hoạt động bộ máy nhà nước, cung cấp các dịch vụ công trực tuyến. Nét đột phá nhất của việc ứng dụng CNTT chính là hiện đại hóa hành chính công hướng tới phục vụ công dân, doanh nghiệp.
- Một điều chắc chắn là Hà Nội đã phải đầu tư nhiều nguồn lực. Cho đến nay chúng ta có thể đong đếm được hiệu quả của các chương trình đẩy mạnh ứng dụng CNTT không thưa ông?
- Sau rất nhiều nỗ lực, đến nay hạ tầng CNTT của Thủ đô đã được thiết lập về cơ bản, bảo đảm đi trước một bước, tạo điều kiện cho việc phát triển các hệ thống thông tin, ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Tỷ lệ cán bộ, công chức được trang bị máy tính chiếm đến 92% và 100% các sở, ban, ngành, quận, huyện, thị xã đã thiết lập mạng máy tính nội bộ; tỷ lệ máy tính kết nối mạng internet đạt 100%; Trung tâm Dữ liệu thành phố được thiết kế đạt tiêu chuẩn quốc tế cấp độ 3; hạ tầng mạng diện rộng (WAN) của thành phố đã triển khai... Đó là những vấn đề không phải địa phương nào trong toàn quốc cũng đạt được.
- Thưa ông, cụ thể việc ứng dụng CNTT tại các sở, ngành cũng như các cấp chính quyền cơ sở được thực hiện ra sao?
- Hiện tại có 20/24 sở, ban, ngành, 29/29 UBND quận, huyện, thị xã có trang thông tin điện tử, 52 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 1 dịch vụ công trực tuyến mức 4 đã hoàn thành, cung cấp trực tuyến và đã tiếp nhận, xử lý hồ sơ giao dịch qua mạng. Có 5/24 sở, ngành và 12/29 UBND quận, huyện, thị xã hỗ trợ tra cứu trạng thái giải quyết thủ tục hành chính trên trang thông tin điện tử.
- Ứng dụng CNTT đã được triển khai tại các bộ phận “một cửa”, “một cửa liên thông” trên địa bàn thành phố?
- Ứng dụng CNTT tại các bộ phận “một cửa”, “một cửa liên thông” được trang bị theo hướng hiện đại, đồng bộ và đã phát huy hiệu quả. Các sở, ban, ngành và UBND quận, huyện, thị xã đã triển khai ứng dụng CNTT tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính với các thiết bị phục vụ công dân tra cứu như: Ki ốt tra cứu, màn hình cảm ứng, thiết bị đọc mã vạch; Có 18/21 sở, ban, ngành và 100% UBND quận, huyện, thị xã sử dụng phần mềm “một cửa điện tử”; 11 quận, huyện đã triển khai phần mềm “một cửa” xuống tất cả các xã, phường trực thuộc...
Tạo ra phương thức, phong cách làm việc mới
- Ông có nghĩ rằng, với những điểm ưu việt, khác với bất cứ phương thức hỗ trợ nào, CNTT vừa là công cụ nhưng đồng thời cũng tạo áp lực đối với công tác CCHC?
- Đúng như vậy. Điều này thể hiện rất rõ trong quá trình triển khai của nhiều cơ quan, đơn vị. CNTT là công cụ vì ứng dụng của nó đã tạo ra một phương thức làm việc mới đối với mỗi cán bộ, công chức và các cơ quan hành chính nhà nước. Qua đó, CNTT là công cụ hỗ trợ đắc lực cho công tác CCHC, giải quyết các hoạt động tác nghiệp trong nội bộ cơ quan cũng như việc phục vụ các tổ chức, công dân. Tuy nhiên ứng dụng CNTT đòi hỏi cán bộ, công chức phải thay đổi cách làm việc cũ để bắt nhịp với phương thức làm việc mới, từ điều hành thủ công truyền thống sang điều hành qua mạng máy tính.
- Chắc chắn người dân rất mong muốn ứng dụng CNTT vào giải quyết các thủ tục hành chính vì như vậy vừa tiết kiệm được thời gian, vừa công khai, minh bạch các quy trình, thủ tục, tránh bị cán bộ phiền hà, nhũng nhiễu. Tuy nhiên trong thực tế chúng ta chưa tận dụng tốt hiệu quả của ứng dụng CNTT, vì thế vẫn còn nhiều kêu ca, phàn nàn trong giải quyết các thủ tục hành chính?
- Khi triển khai, ứng dụng tốt CNTT, mọi trì trệ, ách tắc của bộ máy hành chính sẽ bộc lộ qua môi trường điện tử hóa. Nếu dịch vụ công được cung cấp trực tuyến, ở đó sẽ không có ranh giới giữa các cơ quan hành chính với công dân, tổ chức, mọi thông tin sẽ được công khai, minh bạch. Thành phố chúng ta đang nỗ lực vì điều đó. Đây cũng là một trong những giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI).
- Năm 2012 chỉ số PCI của Hà Nội giảm 15 bậc (đứng thứ 51/63 tỉnh, thành phố). Vậy phải chăng tốc độ phát triển CNTT của Hà Nội thua kém rất nhiều địa phương trong cả nước?
- Vấn đề này tôi đã đề cập ở trên. Sắp tới cơ quan chức năng sẽ có công bố chỉ số về ứng dụng CNTT của các địa phương trong cả nước, chắc chắn Hà Nội sẽ thăng hạng nếu so sánh với thời gian trước.
TP Hà Nội phấn đấu đến năm 2020 bảo đảm 25-30% tổng số giao dịch của các ngành kinh tế được thực hiện thông qua hệ thống giao dịch và thương mại điện tử; quy hoạch xây dựng 5 khu công nghiệp phần mềm và nội dung số; 2 phân khu công nghiệp phần cứng. Tổng doanh thu từ phần mềm và dịch vụ phần mềm đến năm 2015 đạt khoảng 1,1 tỷ USD/năm và đến năm 2020 đạt 3 tỷ USD/năm. |
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.