Trong các công trình khoa học tự nhiên thời Lê có lĩnh vực y học khá rực rỡ. Về khoa học xã hội thì sử học phát triển nhất. Triều đình Thăng Long rất chú trọng công việc làm sử. Từ thế kỷ 15 trở đi, các sử thần đã lần lượt biên soạn rất nhiều bộ sử.
Trong các công trình khoa học tự nhiên thời Lê có lĩnh vực y học khá rực rỡ. Về khoa học xã hội thì sử học phát triển nhất. Triều đình Thăng Long rất chú trọng công việc làm sử. Từ thế kỷ 15 trở đi, các sử thần đã lần lượt biên soạn rất nhiều bộ sử.
Năm 1429, sau khi chiến thắng quân Minh, vua Lê Thái Tổ cho lập “Ký công sách” để ghi tên họ, thành tích những người đã tham gia khởi nghĩa từ những năm đầu.
Nhà Lê lại đặt lệ giao cho sử thần biên chép “Nhật lịch”, tức là một thứ sử biên niên để ghi chép mọi việc làm của nhà vua và triều đình.
Đầu năm 1432, các nho thần soạn xong cuốn “Lam sơn thực lục” ghi chép về cuộc khởi nghĩa muời năm chống quân Minh. Vua Lê thái Tổ viết bài tựa cho cuốn sách.
Năm 1455, Phan Phu Tiên được nhà vua giao cho soạn bộ “Đại Việt sử ký tục biên”, nối tiếp bộ “Đại Việt sử ký”của Lê Văn Hưu, ghi chép các sự kiện lịch sử từ đời Trần Thái Tông đến khi quân Minh thua trận rút về nước. Phan Phu Tiên khi đó giữ chức Quốc tử giám bác sĩ, dạy học ở Quốc Tử Giám. Rất tiếc “Đại Việt sử ký tục biên” cùng “Đại Việt sử ký” đến nay không còn nữa, tuy nhiên nhiều lời bình của ông được ghi lại trong “Đại Việt sử ký toàn thư” của Ngô Sĩ Liên hiện còn được ghi rõ trong “Đại Việt sử ký toàn thư” bản Chính Hòa năm 1697, qua đó người đời sau vẫn có thể biết được quan điểm của ông đối với nhiều nhân vật và sự kiện lịch sử.
Qua lời bình của ông cũng có thể thấy rõ ông là một nhà nho cương trực, tôn trọng tam cương ngũ thường, ghét thói cường bạo, đảo điên, nặng lòng yêu nước yêu dân. ông từng bàn về những người được đưa vào thờ ở Văn Miếu:“Bậc danh nho các đời, có bài trừ dược dị đoan, truyền giữ được đạo thống, thì mới được tòng tự ở Văn Miếu, thế là để tỏ rõ đạo học có ngọn nguồn. Nghệ Tông cho Chu An, Trương Hán Siêu, Đỗ Tử Bình được dự vào đó, thì Hán Siêu là người cứng cỏi, bài xích đạo Phật, An sửa mình trong sạch, bền giữ khí tiết, không cần hiển đạt thì cũng tạm được. Đến như Tử Bình là hạng học nhảm, chiều người, tham lam, bòn vét là kẻ gian thần hại nước, sao lại được len vào chỗ đó".
Đến năm 1479, Sử quan tu Ngô Sĩ Liên lại hoàn thành việc soạn sách “Đại Việt sử”, gồm 15 quyển chép từ thời Hồng Bàng đến Lê Thái Tổ tức “Đại Việt Sử ký toàn thư” . Bộ sử này tất cả có 15 quyển chia hai phần: “Ngoại kỷ” gồm 5 quyển, ghi chép từ đời Hùng Vương đến đầu thời Ngô (938) và “Bản kỷ” gồm 10 quyển ghi chép từ đầu đời Ngô Quyền đến khi Lê Thái Tổ lên ngôi (1428). “Đại Việt Sử ký toàn thư” của Ngô Sĩ Liên là bộ sử lớn, ra đời sớm chỉ sau “Đại Việt sử ký” của Lê Văn Hưu viết năm 1272 đời Trần và “Đại Việt sử ký tục biên” của Phan Phu Tiên viết năm 1455 đời Lê Nhân Tông. Chính trong “Đại Việt Sử ký toàn thư” đã hội nhập không thể phân biệt những nội dung của hai bộ sử trước đó trừ một số đoạn trích dẫn "Phan Phu Tiên nói" và một quyển “Ngoại kỷ” do riêng Ngô Sĩ Liên viết.
Năm 1, vua Lê Thánh Tôn hạ lệnh cho các văn thần biên soạn hai bộ sách . Một bộ là “Thân chinh ký sự” ghi chép việc chiến tranh với Chiêm Thành và Lào. Một bộ là “Thiên Nam dư hạ tập” gồm 100 cuốn ghi chép mọi chính sự của nhà nuớc từ đầu thời Lê đến bấy giờ. Đây cũng là một bộ sách quý.
Năm 1512, tổng tài quốc sử quán là Vũ Quỳnh được lệnh biên soạn bộ “Đại Việt thông giám” ghi chép từ thời Hồng bàng đến sau khi chiến thắng quân Minh, gồm 26 quyển.
Các năm 1655, 1676, 1775, những sử thần như Phạm Công Trứ, Hồ Sĩ Dương , Lê Hy, Nguyễn Quý Đức, Ngô Thời Sĩ, Phạm Nguyễn Du, Ninh Tốn, Nguyễn Sá, Nguyễn Hoàn, Vũ Miên, Lê Quý Đôn đều được lẫn lượt giao cho tiếp tục biên soạn quốc sử, trong thời kỳ nhà Lê.
Các sử gia Vũ Quỳnh, Phạm Công Trứ, Lê Hy đã tiếp nối biên soạn và hoàn chỉnh để tạo nên “Đại Việt Sử ký toàn thư”bản Chính Hòa thứ 18 (1697) ghi chép từ thời Hồng Bàng lập nước đến cuối đời Lê Gia Tông (1675), một bộ sử xưa nhất và đầy đủ nhất hiện có.
Những sách viết về y học thời kỳ này có nhiều. Năm 1432, Phan Phu Tiên biên soạn sách “Bản thảo thực vật toản yếu” . Năm 1676, Đào Công Chính, theo lệnh vua, soạn sách “Bảo sinh diên thọ toản yếu”. Khoảng đầu thế kỷ 18, Trần Hải Yến, ngưòi Thăng Long biên soạn bộ “Y truyền chỉ yếu”. Cũng trong thế kỷ 18, chùa Hồng Phúc ở Thăng Long đã in mấy bộ sách thuốc như “Nam duợc thần hiệu”, “Hồng nghĩa giác tư y thư” của một danh y đương thời là sư Tuệ Tĩnh. Năm 1777, Nguyễn Thế Lịch dâng vua hai bộ sách thuốc là “Tiểu nhi khoa” và “Thai tiên điều dưõng phưong pháp”.
Cuối thế kỷ 18, có danh y Lê Hữu Trác , biệt hiệu Hải Thượng Lãn Ông được chúa Trịnh vời về Thăng Long chữa bệnh. Ông có soạn bộ sách thuốc nổi tiếng là “Hải Thượng y tông tâm lĩnh”.
Ngoài ra, những sách biên soạn về các ngành khác nhau tuykhông nhiều, nhưng cũng có. Về địa lý, có sách “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi. Về quân sự, có “Bình Chiêm sách” của Lê Thánh Tông. Về luật pháp, có sách “Trị bình bảo phạm” soạn năm 1512 để ban phát cho toàn quốc.
Theo Hanea
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.