(HNM) - Quá trình đô thị hóa ở Thăng Long bắt đầu, có thể tính từ cuộc dời đô lịch sử mùa thu năm Canh Tuất (1010) của vua Lý Thái Tổ từ Hoa Lư về Đại La. Từ một thủ phủ Tống Bình - Đại La nhỏ bé của thống trị phương Bắc, xuất phát từ mục đích chính trị, Đại La Thành kinh đô Thăng Long.
Chế tác kim hoàn tại xưởng của một doanh nghiệp trên phố Hàng Bạc. Ảnh: T.Nguyên
Cùng với sự phát triển chính trị, văn hóa... quá trình đô thị hóa đã biến những người dân gốc, có thể là thợ thủ công, thương nhân... -chủ yếu là nông dân - thành thị dân mang tố chất nông dân. Hơn thế nữa, cùng với quá trình nhập cư của nhiều tầng lớp qua nhiều con đường, nhu cầu sử dụng vật phẩm ngày càng tăng, Thăng Long đã hình thành các phườngnghề còn di tích đến ngày nay (qua các tên phố trong khu vực phố cổ như Hàng Hòm, Hàng Thiếc, Hàng Gai...). Trong sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, sự hình thành các làng chuyên nghề ở vùng đồng bằng Bắc bộ thế kỷ 15, hàng hóađược sản xuất hàng loạt, vượt ra khỏi khuôn khổ tự cấp tự túc. Và chợ phiên, chợ làng... đã được sinh ra cùng với nhu cầu trao đổi hàng hóa - hình thành cái ngày nay gọi là thị trường. Thăng Long - Kẻ Chợ chính là cái chợ lớn nhất thời bấy giờ. Không chỉ đáp ứng các sản phẩm tiêu dùng hàng ngày, các phường nghề Thăng Long còn sản xuất đáp ứng nhu cầu xây cất, sinh hoạt, nghi lễ của bộ máy quan lại. Do việc xây dựng và mở rộng Hoàng thành, từ các địa phương, dânlàng nghề cũng di cư tập thể bằng con đường kinh tế vào kinh thành. Tụ tập ở các phố phường, đem theo một số nghề thủ công với lớp thợ thủ công tay nghề cao, có sự phân công rõ ràng tạo nên những người chuyên nghiệp này, kèm theo đó là sự chuyên nghiệp, có thể tồn tại được ở kinh thành kén người, kén của. Những thợ cả, già dặn trong nghề, trở thành người đại diện giao thương, như một thương nhân quản lý ngày nay. Vì vậy, thương nhân và thợ thủ công là một khối đa dạng với nhiều ngành nghề khác nhau, mức sống, tài sản khác nhau nhưng luôn có mối quan hệ chặt chẽ. Họ là những người thuộc đẳng cấp bình dân và mang đậm tính cách thị dân. Mặc dù đã ra Thăng Long lập nghiệp nhưng lớp thị dân này luôn tưởng vọng về quê nhà. Nhữngđền thờ vọng được lập ra ngay trên mảnh đất lập nghiệp. Có thể kể đến đình Hà Vĩ ở Hàng Hòm, thờ tổ nghề sơn của dân Hà Vĩ, Thường Tín. Đình Xuân Phiến, nhà số 4 phố Hàng Quạt, thờ tổ nghề quạt dân Đào Xá, Ân Thi, Hưng Yên. Nhị Khê vọng từ, số 11 Hàng Hành thờ tổ nghề tiện của dân Nhị Khê, Thường Tín. Đình Hoa Lộc, số 90A Hàng Đào do dân bốn họ ở làng nhuộm Đan Loan, Bình Giang, Hải Dương ra kinh đô lập nghiệp dựng nên. Tính đan xen giữa thị dân và nông dân dẫn đến hai khuynh hướng đô thị hóa và nông thôn hóa. Thợ thủ công nhập cư vào Thăng Long thời còn trẻ, nhưng về già lại quay về dưỡng lão ở quê hương. Nhưng đô thị hóa vẫn là xu thế chủ đạo. Chính vì đặc điểm này mà dân cư Thăng Long không đối lập mà gắn bó hòa đồng với tầng lớp nông dân làng xã. Họ luôn có hai quê: Cựu quán (quê gốc) và Kinh quán (Kinh đô). Họ rất năng về quê thăm và giúp đỡ họ hàng, đóng góp xây dựng từ đường, giúp đỡ con cháu trong họ ăn học ở Kinh thành. Những người đỗ đạt ra làm quan, dù ở Thăng Long hay ở đâu, khi nghỉ việc quan cũng có xu hướng về quê dưỡng già. Cũng như vậy, khi đất nước bất ổn, họ lại về quê lánh nạn, hình thành quá trình giảm đô thị hóa tạm thời. Sự gắn bó giữa thị dân và nông dân còn biểu hiện ở lối sống tâm lý. Đây vừa là điểm mạnh, vì hội tụ được nền văn hóa, vừa là điểm yếu vì không phát triển mạnh được nền kinh tế. Dân cư Thăng Long - thợ thủ công và thương nhân - phân hóa chậmvì một vài nguyên nhân sau: Một là sự khống chế của nhà nước phong kiến. Với bộ máy theo kiểu quân chủ chuyên chế, kinh tế phụ thuộc vào nông nghiệp, thợ thủ công làm nghề phục vụ chính cho nhu cầu của tầng lớp trên nên không phát triển được kinh tế hàng hóa. Vì vậy tầng lớp thương nhân cũng không hình thành đông đảo, tính đặc thù cũng không rõ. Hai là sự níu kéo của cộng đồng làng xã. Tâm lý người Việt, ai cũng muốn làm vẻ vang cho dòng họ, đi lập nghiệp, đỗ đạt ở đâu, bao giờ cũng “vinh quy bái tổ” chứ không chịu cảnh “áo gấm đi đêm”. Ba là tâm lý và dư luận xã hội “trọng sĩ ức thương”, “trọng nông ức thương”. Với sự cai trị bằng hệ thống tư tưởng Nho giáo, cục diện trên đã tạo nên tâm lý coi thường thương nhân - mà xã hội nói chung hay gọi họ là “con buôn”, “trọc phú”. Bốn là sự cạnh tranh lũng đoạn của phú thương Hoa kiều. Với số vốn mạnh cũng như kinh nghiệm hoạt động ở một địa bàn rộng lớn - Trung Quốc, thương nhân Trung Hoa là một nhân tố có ảnh hưởng khá lớn và rộng trong nền kinh tế Việt Nam thời trung đại. Vì những lý do trên mà thợ thủ công và thương nhân Thăng Long không chuyển dịch thành giai cấp tư sản. Điều này đã làm xã hội Việt Nam truyền thống thời trung đại bị ngưng trệ, kinh tế lạc hậu, kém phát triển, đất nước không có tiềm lực để xây dựng và tự bảo vệ, tạo điều kiện cho tư bản thực dân Pháp xâm lược. Ngày nay, người Hà Nội với tiêu chí là những cư dân phi nông nghiệp,là công nhân, cán bộ viên chức, trí thức, các văn nghệ sĩ, các nhà doanh nghiệp, những người thợ thủ công, những nhà tiểu thương... thành phần tuy phức tạp nhưnglà lực lượng nòng cốt thúc đẩy công cuộc xây dựng và bảo vệ Thủ đô trên các mặt chính trị, quân sự, kinh tế... Nhờ có khối thị dân này mà Hà Nội đã và đang phấn đấu trở thành một trung tâmchính trị - văn hóa - kinh tế của cả nước và trên trường quốc tế, xứng đáng là Thủ đô của đất nước ngàn năm văn hiến. Nguyễn Lê Chung
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.