Ca trù còn có cách gọi tên khác là hát thẻ (ca - hát, trù - thẻ, người hát xưa khi hát được thưởng cho những thẻ bằng tre trên đó có ghi số tiền thưởng). Theo tài liệu “Việt Nam ca trù biên khảo” của Đỗ Bằng Đoàn- Đỗ Trọng Huề thì hát ca trù có nguồn gốc từ sự kết hợp của ca vũ Trung Hoa với âm nhạc cung đình Việt Nam trong khoảng thời gian từ 111tr.c.n đến năm 938.
Nguồn tư liệu cho biết về tình hình âm nhạc cung đình Việt Nam sớm nhất là thời nhà Lý (1009- 1225) với sự kiện Lý Thái Tổ bổ nhiệm một người làm chức quản giáp trong đội nhạc hoàng gia. Sự kiện này rất quan trọng với sự hình thành của giáo phường ca trù. Cho đến thời nhà Lê (niên đại Hồng Đức) thì đã có một số các tư liệu cho biết về một thể loại âm nhạc mà tên gọi của một số điệu thức giống như tên gọi trong ca trù hiện nay: cung bắc, đại thực, hát tầng (ngày nay gọi là xướng tầng), thiết nhạc, hà nam (Đỗ bằng Đoàn- Đỗ Trọng Huề. tr35).
Đến giai đoạn cuối của nhà Lê (thời Lê Mạt) ca trù đã được biết đến với tư cách là Nữ Nhạc (ca nhạc nhẹ do nữ diễn xuất); hay hát cửa quyền (hát trong các gia đình quý tộc). Về sau lối hát này phát triển vượt ra ngoài với phạm vi rộng và được hát ở cả trong các dịp hội hè, đám cưới, chúc thọ...vv. Lúc này nó được gọi là Hát ả đào với các điệu thức bao gồm phong yêu cổ, đan diện cổ (phối với trống), hay địch quản (phối với sáo trúc)...
Ngoài ra còn một số nhạc cụ khác nữa như đàn đáy, phách, đàn cầm, đàn tranh cũng được sử dụng để phối âm khi biểu diễn loại hình ca nhạc này. Người hát ca trù nói chung gọi là ả đào hay đào nương, toàn bộ những người tham gia biểu diễn âm nhạc cùng ả đào đều gọi là giáo phường. Đứng đầu giáo phường là ông Trùm, sau nữa là Quản giáp. Các giáo phường ca trù chuyên hát ở đình trong các ngày lễ tế thổ thì được gọi là hát cửa đình, các giáo phường khác chuyên hát ở nhà các quan lại để phục vụ các gia đình quý tộc này được gọi là hát nhà tơ (tơ là biến âm của từ Ty- tên gọi công sở quan lại xưa); bộ phận giáo phường Ca trù hát ở các nhà tiếp khách (rạp )thì gọi là hát nhà trò.
Trong kinh thành Thăng long xưa có những thôn chuyên hát ả đào như thôn giáo phường Tống Tả Nghiêm sau đổi là Kim Liên là đất cũ quanh phường Bùi Thị Xuân thuộc quận Hai Bà, nay gồm các phố Lý Thái Tổ, Tràng Tiền, Hàng Khay. Tại đây trước thời kháng chiến vẫn còn đình thờ tổ ca công của giáo phường. Ngoài ra các địa bàn khác như phường hát khâm Thiên, Thái Hà, Ngã Tư Sở...cũng đều là những trung tâm hát Ca trù xưa. Hằng năm những nơi này đều về dự lễ tế tổ tại đền Nam Đồng nằm trên ấp Thái Hà cũ cạnh gò Đống Đa, sau này đã bị phá bỏ.
Từ hình thức sinh hoạt văn hoá tổng thể thời Lê, gồm cả ca, múa, nhạc, đến đầu thời Nguyễn Ca trù đã chuyển dần thành lối hát Ca trù thính phòng, phần múa bị tước bỏ, phần ca nhạc được nâng cao, càng về sau ca trù thính phòng càng được ưa chuộng và trở thành thú chơi tao nhã của giới ca sĩ kinh thành. Đi nghe hát Ca trù là vừa kết hợp nghe đào nương hát những bài hay của cổ nhân vừa là dịp để tự thưởng thức thơ mình do chính bản thân soạn ra theo làn điệu cố định.
Đào nương ngồi hát, hai tay gõ phách, kép đệm đàn đáy, trống chầu được đặt cạnh quan viên (khán giả) để gõ “tom, chát” khen thưởng cho Đào những khi giọng hay, văn khéo, đàn ngọt... Ca trù có nhiều làn điệu, nhưng những điệu chính thường hát hiện nay là Thét nhạc, ngâm vọng, bắc phản, nhịp ba cung bắc, gửi thư, đọc thơ, hãm...Những bài thơ hay như Tỳ bà hành, Tiền Xích Bích phú, Hậu Xích Bích phú là những bài ca đặc sắc và được ưa chuộng hơn cả. Đặc trưng của ca trù là hát nói, lời hát được phổ từ thơ, hát nói cấu trúc phóng khoáng với thể thơ lục bát và thất ngôn.
Khi hát thường hát mưỡu trước sau đó mới hát nói. Số lượng bài hát nói trong ca trù rất lớn, trong đó có nhiều bài khuyết danh, những tác giả về thơ hát đều là những thi nhân nổi tiếng ở Hà Thành như Nguyễn Công trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Quý Tần, Chu Mạnh Trinh, Phan Văn ái, Nguyễn Thượng Hiền... Đây cũng là lối hát mà các chí sĩ yêu nước hồi đầu thế kỷ rất hay sử dụng để vận động tuyên truyền quảng bá tư tưởng yêu nước trong quần chúng nhân dân.
Nghệ thuật hát ca trù cũng rất phức tạp đòi hỏi người đào hát luôn luôn phải luyện giọng cho tròn vành rõ chữ, người hát hay lại phải hát làm sao cho đài các lịch sự, nhưng vẫn không kém phần thắm thiết, tài tình, tâm sự, kỹ thuật nhả chữ, buông câu sao cho bất chợt. Trong hát ca trù sử dụng hơi trong là chính, rung giọng ngâm phải đạt được phong thái vừa kín đáo vừa đoan trang. Luyện được phách đã khó, luyện được những khổ phách cho lưu loát, sinh động phải mất rất nhiều công phu rèn luyện, đào hát không cần dùng điệu bộ mà chỉ qua tiếng phách lẫn câu hát để biểu lộ hết tình cảm của mình.
Hát ca trù nhiều khi không chỉ là thể hiện bài thơ mà còn gửi gắm cả tâm sự riêng khi cất tiếng hát. Người hát đã đòi hỏi phải tinh vi như vậy còn người cầm chầu cũng đòi hỏi phải sành điệu không kém. Trống của người cầm chầu không phải trống cái to mà chỉ là một trống nhỏ xinh xắn, nhưng đòi hỏi âm phải vang và nặng. Dùi trống (roi chầu) bằng thứ gỗ dẻo và cứng, cầm vừa tầm tay.
Cầm trống chầu không phải chỉ là một khán thính giả đơn thuần mà đòi hỏi người cầm chầu phải có một trình độ nhất định về khiếu thẩm mỹ thơ văn (nhiều khi là chính tác giả bài thơ), nhưng lại phải có kiến thức về ca nhạc và đòi hỏi sự tế nhị, nhạy cảm, để mỗi khi gõ, tiếng gõ phải có hồn và làm phấn khích người đào hát thêm say mê. Vì thế khi gõ trống chầu, tiếng cắc ra tang còn gọi là “chát” được gọi với những tên rất đẹp như thuỳ châu, lạc nhạn, hạ mã...cùng với tiếng “tom”, tiếng gõ lên mặt trống gọi là phi nhạn hay thượng mã... Tất cả những tên đó gắn cho tiếng trống chầu nói lên tầm quan trọng của người biết thưởng thức, đồng thời nói lên vai trò vừa là khách thể vừa là chủ thể, vừa thưởng thức vừa cùng biểu diễn với đào hát của người cầm chầu.
Sự giao lưu, liên kết và hỗ trợ nhau giữa người hát, người nghe và người chơi nhạc cụ trong ca trù có thể nói là một khối thống nhất không tách rời. Trong biểu diễn ca trù cây đàn đáy cũng đóng một vai trò quan trọng không kém nó là nhạc cụ duy nhất nối liền giọng hát với phách, và ăn ý mật thiết với tiếng tom, chát của trống chầu. Âm thanh của đàn đáy thoát ra vừa cứng vừa mềm dưới những ngón gảy hoặc rung theo ba cách nhấn, nhún, lăn, nhằm làm nâng bổng tiếng hát lên.
Tiếng hát hoà lẫn tiếng đàn réo rắt như tiếng suối chảy trong khe lúc ban mai vừa hừng nắng. Với mối liên hệ truyền cảm và ảnh hưởng trực tiếp lẫn nhau giữa ca, nhạc, trống chầu, nghệ thuật ca trù ngày càng trở nên điêu luyện, tinh vi. Đi liền với nghệ thuật ca trù là các tác phẩm văn thơ tuyệt vời đã được ngâm ca, những làn điệu dân ca mộc mạc thôn dã đến với nghệ thuật ca trù đã trở nên chau chuốt điêu luyện. Chính điều này làm cho đối tượng thưởng thức và biết thưởng thức ca trù có phần chọn lọc và ở phạm vi hẹp hơn các loại hình nghệ thuật khác. Nó trở thành một thứ thưởng thức nghệ thuật riêng biệt với không khí ấm cúng tế nhị hào hoa kinh kỳ.
Từ chỗ hành nghề không chuyên với đội ngũ giáo phường dần dần ca trù đã là nghề chính trong các nhà hát, đào, kép cũng trở nên chuyên nghiệp và chia thành những trường phái khác nhau: phái theo lề lối khuôn khép tề chỉnh; phái đông hơn theo phong cách hàng huê, hát chậm rãi, nhấn nhá từng câu một và chải chuốt bay bướm phóng khoáng.
Ca trù dưới thời thuộc Pháp đã bị bóp méo, hoặc chạy theo những thói đồi truỵ ăn chơi sau chầu hát, vì thế hát ả đào một thời đã bị xuyên tạc mặc cảm, nhưng những người hát ca trù chân chính vẫn giữ được phong cách và lề lối truyền thống xưa đã ra sức bảo vệ vốn văn hoá cổ truyền của dân tộc.
Ngày nay ca trù lại được trả về đúng vị trí là ca nhạc thính phòng Việt Nam, hằng năm trong các cuộc vui chung tại Văn miếu, đền Ngọc sơn, các chầu hát ca trù lại được mở, những lời hát ca ngợi quê hương đất nước tươi đẹp, ca ngợi con người và cuộc sống mới lại ngân lên thánh thót hoà lẫn ráng chiều vàng rực trên sóng nước hồ gươm!
Theo Thudo.gov.vn
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.