(HNM) - Ngày 2-8-2007, lần đầu tiên trên thế giới, Nga đã tiến hành thăm dò đáy biển Bắc Băng Dương khi hai tàu ngầm cỡ nhỏ Hòa bình-1 (Mir-1) và Hòa bình-2 (Mir-2) của nước này đã bắt đầu cuộc khảo sát lịch sử với sứ mệnh cắm cờ Nga xuống đáy biển Bắc Cực, bao gồm cả thềm lục địa Bắc Băng Dương có trữ lượng tới 10 tỷ tấn dầu.
(HNM) - Ngày 2-8-2007, lần đầu tiên trên thế giới, Nga đã tiến hành thăm dò đáy biển Bắc Băng Dương khi hai tàu ngầm cỡ nhỏ Hòa bình-1 (Mir-1) và Hòa bình-2 (Mir-2) của nước này đã bắt đầu cuộc khảo sát lịch sử với sứ mệnh cắm cờ Nga xuống đáy biển Bắc Cực, bao gồm cả thềm lục địa Bắc Băng Dương có trữ lượng tới 10 tỷ tấn dầu.
Tàu ngầm Mir-1. |
Dự án chế tạo tàu ngầm Mir do Học viện Khoa học Liên bang Xô Viết (hiện là Học viện Khoa học Nga) nghiên cứu phát triển. Tàu Mir-1 và Mir-2 ra đời năm 1987 được thiết kế cho mục đích nghiên cứu khoa học và có thể sử dụng để hỗ trợ việc giải cứu các tàu ngầm gặp nạn cho dù loại tàu này không có khả năng để người vào khoang khi đã ở dưới nước. Tàu ngầm Mir có thể lặn ở độ sâu tối đa 6.000m và đây là 2 trong số 7 tàu ngầm có người điều khiển trên thế giới có khả năng lặn dưới độ sâu 3.000m. Những chiếc khác bao gồm tàu ngầm
Phần vỏ của những tàu ngầm lặn sâu thường được làm bằng các lá titan. Đối với Mir, phần vỏ hình cầu là hợp kim thép đặc biệt có độ cứng hơn titan 10% và dày 5cm. Loại hợp kim này bao gồm 30% côban và một lượng nhỏ hơn niken, crôm và titan. Tàu ngầm Mir dài 7,8m, rộng 3,6m, cao 3m và nặng 18,6 tấn, tuy nhiên đường kính hoạt động trong khoang rộng 2,1m. Tàu có 3 cổng nhìn với đường kính 20cm. Hệ thống pin NiCad có công suất 100kW/h cung cấp điện năng cho tàu trong khi động cơ điện bơm nước cho hệ thống điều khiển và 3 động cơ phản lực. Động cơ phản lực ở đuôi tàu có công suất 9kW trong khi 2 động cơ còn lại là 2,5kW mỗi chiếc. Tốc độ di chuyển tối đa dưới nước của tàu Mir là 5 hải lý. Sự cân bằng trọng tải theo chiều dọc của con tàu nhờ vào việc sử dụng 2 két nước hình cầu ở phía trước và sau. Nước có thể được bơm ra khỏi két theo yêu cầu qua hệ thống không khí nén.
Áp lực không khí trong khoang được duy trì ở một hằng số như bầu khí quyển, không khí được đối lưu theo cách tương tự như trên khoang tàu vũ trụ. Hệ thống rađiô VHF sẽ giúp duy trì việc liên lạc giữa tàu Mir và mặt đất, trong đó có cả thiết bị phát hiện tàu ngầm có tầm xa 250m, do vậy những vật thể ở gần tàu có thể được giám sát và kiểm soát độ xa một cách chính xác. Trong khi đó, hệ thống hỗ trợ có thể giúp duy trì sự sống cho 3 thủy thủ đoàn trong thời gian hơn 3 ngày trong điều kiện tàu gặp nạn, được thiết kế chịu áp lực dưới độ sâu 6.000m và đã qua thử nghiệm ở mức độ 125% của áp lực ở độ sâu này. Kết quả thực địa cho thấy Mir-1 có thể xuống tới độ sâu 6.170m và Mir-2 là 6.120m. Tàu ngầm Mir cũng có thể thay đổi độ sâu theo chiều thẳng đứng với tốc độ tối đa 40m/phút.
Minh Nhật
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.