Theo dõi Báo Hànộimới trên

Tân Minh xa mà gần

ANHTHU| 15/08/2003 09:00

Trong tâm thức của không ít người, Hà Nội dường như chỉ gói gọn nơi mấy quận nội thành. Bởi thế, chặng đường dài hơn 30km từ trung tâm Thủ đô đến Tân Minh, một trong 26 xã, thị trấn của vùng bán sơn địa Sóc Sơn trở nên xa ngái. Lại càng lạ lẫm khi Tân Minh không hề có một chút sức vóc, dáng dấp tương xứng với vùng ven của xứ Kinh Kỳ. Xã này vừa mới thoát nghèo, vừa mới tách khỏi “nhóm khó khăn” của huyện. Có dạo, dư luận ì xèo: “Hay là cắt quách Sóc Sơn cho Vĩnh Phúc như đã làm với huyện Mê Linh dạo nào”. Nghe, nghĩ đến Tân Minh và nhiều xã đang nỗ lực thoát nghèo mà ứa nước mắt...

Phát triển nghề phụ làm bánh đa ở xã Đông Xuân (Sóc Sơn). Ảnh: Tiến Dũng

Trong tâm thức của không ít người, Hà Nội dường như chỉ gói gọn nơi mấy quận nội thành. Bởi thế, chặng đường dài hơn 30km từ trung tâm Thủ đô đến Tân Minh, một trong 26 xã, thị trấn của vùng bán sơn địa Sóc Sơn trở nên xa ngái. Lại càng lạ lẫm khi Tân Minh không hề có một chút sức vóc, dáng dấp tương xứng với vùng ven của xứ Kinh Kỳ. Xã này vừa mới thoát nghèo, vừa mới tách khỏi “nhóm khó khăn” của huyện. Có dạo, dư luận ì xèo: “Hay là cắt quách Sóc Sơn cho Vĩnh Phúc như đã làm với huyện Mê Linh dạo nào”. Nghe, nghĩ đến Tân Minh và nhiều xã đang nỗ lực thoát nghèo mà ứa nước mắt...

Tân Minh, gần mà xa

Ông Nguyễn Văn Tài, phó chủ tịch UBND xã Tân Minh cười cam chịu: “Thì đúng là về mặt địa giới hành chính, Tân Minh mang cái danh có “hộ khẩu” Hà Nội. Nhưng nói thẳng băng ra, về kinh tế, về đời sống bà con... xã này xa Hà Nội lắm”. Cũng dễ hiểu, bởi lẽ Tân Minh nằm đúng vùng đất đai bạc màu trên nền phù sa cổ, đóng gạch thì được nhưng trồng trọt hiệu quả chẳng được bao lăm. Đã thế, còn hay bị xói mòn, chớm nắng đã hạn, sẩy mưa đã úng. Trong khi đó, sản xuất nông nghiệp vẫn là chủ đạo ở xã bốn phần nông, một phần thương này.

Lại nữa, trồng trọt gần như mang tính độc canh khi cây trồng chính là lúa, lạc và đậu tương. Năm 2002, tổng sản lượng lương thực quy thóc chỉ đạt 4.552 tấn. Vụ xuân vừa rồi, sản lượng có tăng nhưng không đáng kể, đạt 2.989 tấn (tăng 4%). Tính ra, năng suất cây trồng mới đạt 40 tạ/ha/vụ quy ra giá trị thu nhập/1 ha đất canh tác quãng chừng 30 triệu đồng, thấp hơn nhiều so với không ít địa phương khác ở Thái Bình, ở Hải Dương, ở Hà Nam... Vì lẽ đó, bình quân thu nhập đầu người mới tròm trèm 1,7 triệu đồng một năm, tức là khoảng 130 nghìn đồng một tháng.

Cũng năm 2002, Tân Minh còn 16,2% hộ nghèo. Bà con cũng trông chờ nhiều, hy vọng nhiều vào phát triển chăn nuôi,vào kinh tế vườn ngõ hầu từng bước có thể vươn lên cho bằng chị, bằng em. Song, cuộc mưu sinh quả thực còn không ít nỗi truân chuyên, bởi để đầu tư cho con giống, vật nuôi thì cần nhiều vốn. Vẫn ông Tài chua chát: “Tính đi, tính lại, thu nhập từ chăn nuôi mới chiếm 43% tỉ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp. Nghĩa là vẫn còn nhiều khó khăn, nhiều trở lực để vươn lên thành khá giả, giàu có lắm”.

Câu chuyện “kim đồng hồ quay ngược”

Một đồng chí cán bộ xã ca thán: “Có lẽ phải lâu nữa Tân Minh mới có thể gia nhập tốp những xã dẫn đầu của huyện”. Còn phó chủ tịch Tài cho biết thêm: “Do đất chật, người đông, nên chờ đợi một dự án phát triển công nghiệp ở đây là điều không tưởng. Mong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội... ở Tân Minh đổi thay chóng vánh một sớm, một chiều họa chăng chỉ nếu... kim đồng hồ quay ngược. Cũng chỉ biết tập trung vào nông nghiệp để bươn chải vươn lên”.

Hướng đi được tập trung nhiều nhất là tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và phá bỏ thế độc canh để nâng cao hệ số quay vòng đất. Chương trình phát triển kinh tế vườn với việc trồng những cây có giá trị như bưởi, nhãn, chương trình chăn nuôi theo mô hình trang trại đang từng bước được mở rộng. Anh chánh văn phòng UBND xã Tân Minh hồ hởi: “Mà để làm được những điều đó, trước tiên phải định kỳ tập huấn khoa học kỹ thuật cho bà con nông dân. Vì bên cạnh sự eo hẹp về đồng vốn, hạn chế kiến thức sản xuất có lẽ là một trong những khâu yếu kém nhất của người dân nơi đây.

Nhờ vậy, hoạt động sản xuất bước đầu đã mang lại hiệu quả. Việc chăn nuôi, bà con không còn cái cảnh nơm nớp lo sợ con vật nuôi đổ bệnh. Nhưng trở ngại lớn nhất vẫn là đồng vốn, đặc biệt đối với các hộ nghèo. Tổng số tiền hơn 6,3 tỷ đồng mà 3.783 lượt hộ nghèo được vay dường như quá ít ỏi, lại chia ra trong hai năm. Trong khi đó, lãi suất ngân hàng cao mà thủ tục không phải đã hết nhiêu khê. Có thể ví đồng vốn và bàn tay người nông dân như ở hai đầu xa thẳm. Xem ra, nhà nông làm giàu đã khó. Con đường tới ấm no của bà con xã Tân Minh lại càng trắc trởhơn nhiều. Chị Nguyễn Thị Gái, một trong những hộ nghèo ở thôn Xuân Dục, lắc đầu: “Khó trăm bề, chú ạ!”.

Thế là Tân Minh cứ trong cái vòng luẩn quẩn: Trồng trọt thì đất không “chiều” người. Mở hướng chăn nuôi thì người dân không có vốn.

Những anh Sáu “phá” nghèo

Tuy chưa phải hộ giàu có nhưng gia đình anh Lê Quang Sáu, thôn Đan Tảo cũng vào hàng có bát ăn, bát để. So với mặt bằng xã Tân Minh nói riêng, huyện Sóc Sơn nói chung, nhà anh đã được xem là no đủ, sung túc. Vẫn là hộ 100% nông nghiệp, “nông nghiệp đặc”, như cách nói của bí thư chi bộ thôn Đỗ Bá Toàn, nhưng mô hình kinh tế gia đình kết hợp vườn tạp, chuồng trại với ao thả cá của anh đã mang lại hiệu quả kinh tế cao. Khi chúng tôi đến nhà, anh Sáu đi vắng. Vợ Sáu cười tươi, nụ cười hồn hậu của người no đủ: “Ban đầu, nhà tôi đấu thầu thuê đất của HTX, mô hình Vườn - Ao - Chuồng được xây dựng cách đây hơn chục năm. Bây giờ, tổng diện tích để chăn nuôi, trồng trọt là hơn tám sào đất”.

Mô hình VAC nhà Lê Quang Sáu nuôi tập trung theo kiểu công nghiệp 300 con vịt, 400 con ngan, 20 con lợn, có vài chục gốc nhãn, một số lại cây ăn quả có giá trị khác cùng một ao cá rộng mấy sào. Tôi nhẩm tính, với quy mô như thế theo thời giá hiện tại, một năm anh cũng thu về trên dưới 20 triệu đồng sau khi đã chiết khấu tiền vốn đầu tư con giống, vật nuôi và thức ăn gia súc, gia cầm.

- Thế ban đầu, gia đình lấy vốn ở đâu? - Tôi hỏi

- Cơ bản là vốn tự có, còn lại thiếu đâu thì chịu đó, chạy vạy thêm. Đến bây giờ đã trả hết cả gốc lẫn lãi. Muốn mở rộng cũng có đồng giắt lưng rồi”.

Song những gia đình được xem là điển hình của Tân Minh như hộ nhà anh Sáu không nhiều, dẫu rằng mô hình kinh tế này vẫn mang tính nhỏ lẻ, “vơ váo”....

Cùng thôn Đan Tảo với anh Lê Quang Sáu còn có ông Đỗ Bá Sáu. Người ta ví von “hai ông Sáu” này là những ông Sáu “phá nghèo”. Ông Đỗ Bá Sáu bảo: “Năm chục tuổi đầu, chẳng lẽ vẫn để năm mặt con mình phải khổ. Mà trông vào cây lúa, cây lạc thì không ổn rồi”. Ông “chạy” vốn ngân hàng nông nghiệp huyện, lãi suất 1%, đầu tư vào chăn nuôi lợn. Với đồng vốn vay 5 triệu đồng ban đầu, cứ gom góp, chắt chiu, bây giờ chuồng lợn nhà ông bình thường có khoảng 30 con, lúc cao điểm lên tới 50 con. Trung bình một năm, ông Sáu xuất chuồng hơn 100 con lợn, tính ra lãi hàng chục triệu đồng. “Tay trắng đi buôn” dù không ít chật vật nhưng được như thế là khá lắm rồi, nhất là lại ở một xã nghèo như Tân Minh.

Ông Đỗ Bá Tọa, bí thư thôn Đan Tảo cho biết thêm: “Cả thôn chừng 500 hộ, khoảng 2000 nhân khẩu nhưng không thiếu những gia đình như thế này, tỉ như nhà ông Chính, nhà ông Luận... Có dễ phải tới 60 hộ được xem là khá giả, có tivi, có tủ lạnh, xe máy... Chỉ còn 5% số hộ nghèo (29 hộ) chủ yếu do thiếu vốn hoặc chưa biết cách làm ăn”.

Cứ nhìn cung cách làm ăn của bà con xã Tân Minh thì thấy cũng không ít hộ vươn lên được từ nông nghiệp. Có thể kể thêm hộ anh Vương Văn Đường. Mô hình kết hợp chăn nuôi, trồng trọt bao gồm một trâu, một bò, hàng trăm con ngan, vịt, gà... và đàn lợn lúc cao điểm lên tới vài chục con làm lợi cho gia đình mỗi năm cả chục triệu đồng. Hộ nhà anh Nguyễn Văn Chiểu thôn Xuân Dục, cũng là một ví dụ. “Cứ chịu khó gom góp, chắt chiu thì cũng đến lúc mở mày, mở mặt”, nhiều người dân không cam chịu đói nghèo ở đây bảo thế.

Tân Minh, xa mà gần

Nói thế, e rằng hơi quá lạc quan, nhưng đây là những dòng đầy cảm động gửi từ Tân Minh tới báo Hànộimới: “Năm 2002, đời sống nhân dân trong xã đã được nâng lên rõ rệt. Số hộ giàu tăng 3%, số hộ nghèo giảm xuống từ 22% còn18%”.

Như vậy, hướng thoát nghèo của Tân Minh bước đầu có kết quả. Ông phó chủ tịch xã cho biết thêm: “Với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm 6,1%, chúng tôi phấn đấu đạt 8-9% và giảm số hộ nghèo xuống còn 2% vào năm 2004. Trong cơn bĩ cực, nhiều hộ gia đình đã năng động tìm cách bươn chải vươn lên. Hiện tại, toàn xã đã có 12% hộ giàu có, 40% hộ khá giả theo tiêu chí mới”

Nhưng nói gì thì nói, Tân Minh vẫn rất cần sự hỗ trợ, giúp đỡ của các cấp, các ngành. Sự đầu tư về giống cây trồng, vật nuôi, công trình xây dựng trạm bơm nước thôn Xuân Đồng do báo Hànộimới tài trợ kinh phí... làhoạt động tương thân, tương ái ấm áp nghĩa tình đối với một xã vừa thoát nghèo ở vùng đất bán sơn địa Sóc Sơn. Tân Minh hôm nay với diện mạo khá tươm tất đã và đang phôi thai dáng dấp của một xã ngoại thành trù phú và từng bước đi lên.

Quả thực, Tân Minh gần mà xa, nhưng ngày lại ngày, xa mà lại rất gần Hà Nội theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng.

Lã Nguyên An

(0) Bình luận
Nổi bật
    Đừng bỏ lỡ
    Tân Minh xa mà gần

    (*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.