Tôi và chồng tổ chức đám cưới và chung sống từ năm 1998 nhưng tới năm 2002 mới chính thức đăng ký kết hôn. Năm 2000, vợ chồng tôi có mua một căn nhà nhưng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở lại chỉ ghi tên chồng tôi. Xin hỏi luật sư, nếu bây giờ vợ chồng tôi ly hôn thì tôi có được hưởng quyền lợi gì đối với nhà đất nói trên không? Nguyễn Thị Mai (Từ Liêm, Hà Nội)
Tôi và chồng tổ chức đám cưới và chung sống từ năm 1998 nhưng tới năm 2002 mới chính thức đăng ký kết hôn. Năm 2000, vợ chồng tôi có mua một căn nhà nhưng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở lại chỉ ghi tên chồng tôi. Xin hỏi luật sư, nếu bây giờ vợ chồng tôi ly hôn thì tôi có được hưởng quyền lợi gì đối với nhà đất nói trên không?
Nguyễn Thị Mai (Từ Liêm, Hà Nội)
Thạc sỹ, luật sư Lê Việt Nga (Công ty Luật Số 5 - Quốc gia, ĐT: 04.37622620; website: www.luatsuvietnam.vn) trả lời:
- Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định 77/2001/NĐ-CP ngày 22-10-2001 của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 ngày 9-6-2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình thì: Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3-1-1987 đến ngày 1-1-2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn. Từ sau ngày 1-1-2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng. Điều 3 Nghị định 77/2001/NĐ-CP còn quy định, quan hệ hôn nhân của những người đăng ký kết hôn theo quy định tại nghị định này được công nhận kể từ ngày các bên xác lập quan hệ vợ chồng hoặc chung sống với nhau như vợ chồng trên thực tế. Ngày công nhận hôn nhân có hiệu lực phải được ghi rõ trong sổ đăng ký kết hôn và giấy chứng nhận kết hôn theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp.
Như vậy, nếu thực tế ông bà đã tổ chức đám cưới và chung sống vợ chồng từ năm 1998 và đến năm 2002, ông bà đã thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật thì ông bà đã được pháp luật công nhận là vợ chồng kể từ ngày thực tế chung sống (ngày công nhận hôn nhân có hiệu lực được ghi rõ trong sổ đăng ký kết hôn và giấy chứng nhận kết hôn).
Căn cứ quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì: Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Do đó, tài sản mà ông bà mua được trong thời kỳ hôn nhân sẽ là tài sản chung của vợ chồng.
Trường hợp vợ chồng thực hiện thủ tục ly hôn và có yêu cầu phân chia tài sản thì tòa án sẽ áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 95 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 để chia, theo đó thì tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.