Thời phong kiến, “hồi tỵ” được coi như một nguyên tắc bố trí quan lại của Nhà nước - nhằm tránh sự làm việc không khách quan, nể nang, né tránh hoặc bao che, nâng đỡ cho nhau giữa những người thân thuộc, khiến họ thoải mái lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà làm những chuyện tiêu cực... Nguyên tắc này đã phát huy hiệu quả. Hiện nay, trong bộ máy Nhà nước ta hầu như không có một nguyên tắc, nào của “hồi tỵ”, nếu không muốn nói là hoàn toàn trái ngược. Điều đó liệu có liên quan gì đến việc phát sinh tệ tham nhũng ?
Thời phong kiến, “hồi tỵ” được coi như một nguyên tắc bố trí quan lại của Nhà nước - nhằm tránh sự làm việc không khách quan, nể nang, né tránh hoặc bao che, nâng đỡ cho nhau giữa những người thân thuộc, khiến họ thoải mái lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà làm những chuyện tiêu cực... Nguyên tắc này đã phát huy hiệu quả. Hiện nay, trong bộ máy Nhà nước ta hầu như không có một nguyên tắc, nào của “hồi tỵ”, nếu không muốn nói là hoàn toàn trái ngược. Điều đó liệu có liên quan gì đến việc phát sinh tệ tham nhũng ?
Có thể nói, tham nhũng thường bắt đầu từ cái gốc là quyền lực. Một người gần như chỉ có thể tham nhũng khi anh ta có quyền ít nhiều về một lĩnh vực, một nội dung nào đó. Vì vậy, chống tham nhũng là phải tạo được một cơ chế khống chế quyền lực và kiểm soát việc thực thi quyền lực, ngăn chặn nguy cơ thoái hóa, biến chất, lôi bè kéo cánh của những người nắm quyền trong tay để làm bậy.
Dưới thời phong kiến Việt Nam, tệ tham nhũng đương nhiên có tồn tại. Sử cũ ghi lại, nhiều vị quan công khai tuyên bố “quyền được vơ vét” của mình. Thời Trần, vào năm Bính Thân (1296), khi bị dân kiện về tội tham ô tài sản, một vị quan lớn đã “hùng hồn” tuyên bố: “Dân là vịt, tướng là chim ưng, lấy vịt mà nuôi chim ưng thì có gì là lạ”. Có thể thấy rằng, dưới thời phong kiến, do tính quan liêu, mất dân chủ của nền hành chính nên tham nhũng tồn tại như một lẽ đương nhiên. Tuy nhiên, nhận thức được sự nguy hại của tệ nạn này, nhiều đời vua và triều đình phong kiến đã có thái độ kiên quyết và thực hiện nhiều biện pháp tích cực chống tham nhũng. Một trong những biện pháp đó - cho đến nay vẫn được nhắc đến về tính thức thời và hiệu quả cao trong việc chống tham nhũng - là việc thực hiện luật “hồi tỵ”.
“Hồi tỵ” nguyên nghĩa là “tránh đi” hoặc “lánh đi”, về sau được dùng như khái niệm để chỉ một nguyên tắc bố trí quan lại của Nhà nước. Theo đó, những người có quan hệ huyết thống, đồng hương, thầy trò, bạn bè... không được cùng làm quan hay làm việc ở một địa phương, công sở. Nếu gặp một trong những trường hợp trên thì phải tâu báo lên để thuyên chuyển những người thân thuộc đó đi các nơi khác nhau. Quy định “hồi tỵ” nhằm tránh sự làm việc không khách quan, nể nang, né tránh hoặc bao che, nâng đỡ cho nhau giữa những người thân thuộc, hạn chế việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện các hành vi tiêu cực.
Lê Thánh Tông là vị vua đầu tiên vận dụng chế độ “hồi tỵ” vào việc xây dựng bộ máy chính quyền. Trong “Quốc triều hình luật” có một số điều quy định “hồi tỵ”. Đó là:
- Quan lại không được lấy vợ, kết làm thông gia với người ở nơi mình cai quản;
- Không đưa quan lại về quê hương bản quán trị nhậm;
- Quan lại không được tậu đất, vườn ruộng, nhà tại nơi cai quản;
- Quan lại không được lấy người cùng quê làm người giúp việc;
- Người có quan hệ thầy trò, bạn bè không được làm việc tại cùng một công sở.
Luật “hồi tỵ” thời Lê Thánh Tông còn thực thi nghiêm ngặt trong các kỳ thi hương, thi hội; áp dụng với cả đội ngũ viên chức ở cấp xã. Năm Hồng Đức thứ 19 (Mậu Thân, 1488), nhà vua đã xuống chiếu: Hễ là anh em ruột, anh em con chú con bác và bác cháu, cậu cháu với nhau thì chỉ có một người được làm xã trưởng, không được cùng làm để trừ mối tệ bè phái hùa nhau. Tám năm sau, quy định này được mở rộng ra với cả những người là con cô con cậu, con dì con già và những người có quan hệ thông gia: Trường hợp này nếu đã cùng làm xã trưởng rồi thì phải chọn người nào có thể làm được việc cho lưu lại, còn thì cho về làm dân. Biện pháp này có tác dụng ngăn chặn tệ lợi dụng quan hệ thân tộc, vây bè kéo cánh cả về phía họ ngoại và thông gia trong việc nắm giữ các chức danh trong bộ máy hành chính, nhằm thao túng làng xã.
Trong các triều đại phong kiến sau đó, vua Minh Mạng là người thực hiện luật “hồi tỵ” triệt để hơn cả. Ngoài các điểm chung như luật “hồi tỵ” thời Lê Thánh Tông, Minh Mạng còn có nhiều quy định tích cực và triệt để hơn. Đó là:
- Các dịch lại ở các nha môn, các bộ ở Kinh đô và các tỉnh là bố con, anh em ruột, anh em con chú con bác với nhau thì phải tách ra, đổi bổ đi nơi khác;
- Các quan lại không được làm quan ở nơi trú quán (nơi ở một thời gian lâu), ở quê vợ, quê mẹ mình; thậm chí cả nơi học tập lúc nhỏ hoặc lúc trẻ tuổi. Các lại mục, thông lại cũng không được làm việc ở phủ, huyện là quê hương của mình.
- Các lại mục, thông lại các nha thuộc phủ huyện là người cùng làng cũng phải chuyển bổ đi nơi khác.
- Các quan viên từ Tham biện trở lên ở các trấn, tỉnh về Kinh đô dự đình nghị, song khi trong các cuộc họp có bàn việc liên quan đến địa phương mà mình nhậm trị thì không được vào dự.
Cũng có một số cơ quan và ngành không áp dụng luật “hồi tỵ”. Ví dụ như Ty Chiêm hậulà cơ quan chuyên trách về lịch; Thái y viện là cơ quan chăm sóc sức khỏe nhà vua; Ty Hiệu lễ sinh chuyên coi về lễ nghi là những cơ quan gần như không có nguy cơ nảy sinh tiêu cực và cần người có trình độ chuyên môn cha truyền con nối.
HNM
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.