(HNM) - Như là một thói quen, người ta cứ nói đến phố phường Hà Nội là y như rằng nhắc đến Khu Ba sáu phố phường cổ kính, có từ thời Lý-Trần, rất lâu trước khi có tên gọi ấy. Có thể vì thế mà rất ít người để tâm đến những con phố ngoài đê sông Hồng.
(HNM) - Như là một thói quen, người ta cứ nói đến phố phường Hà Nội là y như rằng nhắc đến Khu Ba sáu phố phường cổ kính, có từ thời Lý-Trần, rất lâu trước khi có tên gọi ấy. Có thể vì thế mà rất ít người để tâm đến những con phố ngoài đê sông Hồng. Xưa nữa, chắc đó là làng trại, gần một thế kỉ nay nhà cửa mọc lên thành phố, cũng chứa đựng trong lòng bao biến động.
Từ chân cầu Chương Dương đến Cảng Hà Nội, cho đến giữathế kỷ XIX vốn là đất của các làng cổ Bảo Linh, Thanh Yên, Nguyên Khiết, Biện Dương, Đông Trạch, Lãng Hồ, Tự Nhiên, Trúc Võng thuộc thôn Cơ Xá tổng Tả Túc, huyện Thọ Xương. Riêng làng Đồng Nhân lại thuộc Tổng Thanh Trì, Huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín. Năm 1902, Pháp cho khánh thành cầu Đu Me (dân quen gọi là cầu Long Biên) thì số phận các làng cổ ngoài đê bắt đầu thay đổi theo chương trình đô thị hóa của chính quyền thực dân.
Dân lao độngtừ bao đời đã quen với sông nước, lúc đó phải làm quen với những tên phố mới được đặt tên bằng tiếng Pháp hoặc đánh số thứ tự. Cầu Đất là phố đầu tiên được bê tông hóa chạy thẳng ra cảng sông thành phố với cầu tàu, kho hàng, bến bãi còn rất sơ sài. Cột đèn báo bão cho tàu được dựng lên cuối phố. Cảng sông tấp nập tàu thuyền của các hãng vận tải đường sông lớn nhất thời đó nhưSauvage của tư bản Pháp (dân gọi là hãng Tây Điếc). Riêng hãng của ông Bạch Thái Bưởi với đội tàu hùng hậu cạnh tranh với tư bản Pháp, Hoa. Năm 1937, cảng sông rời xuống làng ĐồngNhân (sau này gọi là cảng Phà Đen). Chỉ cách một con đê mà trên đại lộ Quai Guillmoto (nay là phố Trần Quang Khải) ngay sát chân đê chi chít trụ sở các hãng tư bản Pháp, kiến trúc kiểu Gô-tích đẹp và sang trọng: Nha thương chính, hãng Sauvage, hãng Michaud, nhà Đoan. Ngoài đê, người dân ở trong các túp lều tranh tre lụp xụp, không điện nước, không trường học, nhưng vẫn có sòng bạc khá lớn. Các dốc Chương Dương, Vạn Kiếp, Vân Đồn, mãi đến những năm 40 của thế kỷ trước mới có đường bê tông. Đọng trong trí nhớ đau buồn của kiếp sống nô lệ là thảm cảnh nạn đói năm 1945,xe bò ì ạch chở xác người chôn ngay chân đê đầu dốc Vạn Kiếp. Hơn một năm sau, đúng đêm 19-12-1946, khi tiếng súng kháng chiến của quân dân Hà Nộirền vang khắp thành phố thì ngoàiđê, máy bayPháp phóng đạn lửa xuống khu dân cư, thiêu cháy hàng trăm nhà. Lửa rừng rực, khói bốc cao ngùn ngụt, dân nheo nhóc, tang thương kéo nhau chạy vào các phố Hàng Vôi, Lò Sũ, Nguyễn Hữu Huân lánh nạn.
Hòa bình lập lại, ngoài đê mọc lên hàng loạt nhà ngói và nhà gỗ tập thể cho cán bộ công nhân viên Nhà nước. ánh điện thắp sáng trang vở học trò. Tiếng còi tàu ngân dài và quang cảnh tấp nập khi tàu về đã là nhịp sống riêng của phố bờ sông. Người dân quen nghe tiếng còi tàu, biết là mấy giờ. Lũ trẻ rủ nhau ra xem, háo hức nhìn khoang lái và bác lái tàu kỳ tài, ao ước được bác cho cầm cái vô lăngxoay… xoay… cho tàu đi. Rồi mỗi đứa như chim sải cánhbay muôn phương, mà nỗi nhớ đầu tiênlà về con ngõ nhỏ trong mùa nước lụt. Hầu như nhà nào ở ngoài đê cũng có chiếc thuyền con để chèo qua các ngõ phố đi chợ, đưa trẻ con đi học trong những ngày bị thủy thần giận dữ dâng nước. Với lũ trẻ, đó là dịp đểlội nước bì bõm thỏa thích vàchộp cá từ sông lạc vào. Mải đến nỗi bịđánh cho vài roi vẫn theo chúng bạn ham chơi quên lời mẹ dặn, học bài xong lại ơi ới gọi nhau đi nghịch nước.
Sau này công trình thủy điện Hòa Bình đã làm giảm hẳn nạn nước lên, dân đỡ khổ phải chạy lụt. Hãn hữu lắm, dễ đã qua 15-20 nămmới có một lần dân ngoài đê phải bồng bế nhauchạy vào trong phố tạm trú như trận lụt to năm 2005.
20 năm đổi mới, phố ngoài đê dần thay da đổi thịt. Bến tàu tấp nập, giờ đã đi vào quá vãng. Hành khách đi ô tô vừa nhanh vừa tiện lợi nên chẳng còn ai muốn đi ca nô nữa. Công ty khai thác cát hoạt động cả trong mùa mưa, những đống cát khổng lồ cao hơn mái nhà sừng sững bên mép nước. Chợ cóc họp ngay gần đó, chẳng kể cát bay. Từ mạn Phà Đen đi tiếp lên phía trên, phố ngoài đê bớtvẻ lầm lụi. Các nhà hàng mọc lên ven sông, thực khách ăn uốnghải sản Sầm Sơn hay cá giò Viễn đôngvà đón gió sông Hồng mát rượi. Dưới bến Chương Dương, tàu du lịch sông Hồng chở khách thăm các di tích và danh thắng ven sông, xuống đền Chử Đồng Tử rồi quay lại, nhưng xem chừng vắng vẻ quá. Đisuốt phố Vân Đồn và Bạch Đằng, tôi vẫnnhư thấy thiêu thiếu mùi hương đã thân quen từ thuở tóc đuôi gà, khiphố còn lát những viên đá xanh vuông cỡ 50x50cm lênnước xanh đen. ấy là mùi gỗ thơm nồng, ấm áp từ nhà máy cưa Bạch Đằng tỏa ra. Đường phố chưa được trải nhựa vắng bóng cây xanh. Chỉqua vài trận mưa to, đường vào cửa khẩu Vân Đồn đã mấp mô ổ gà, ổ trâu. Dọc đường bờ sông, những ngôi nhà hộp diêm 2-3 tầng ngoảnh mặt tiền ra phố, sau nhà là công trình phụ cơi nới lụp xụp, giáp mí nước. Hàng ngày, không biết bao nhiêu phế thải đổ vô tội vạ xuống rệ sông. Tệ lấn chiếm bờ vở sông vẫn không ngừng gia tăng. Phía bên kia đường, cách một quãng ngắn lại có một ngõ nhỏ hình chữ chi, dấu tích củanhững ngõ xóm lầy lội chật hẹp xưa, có khác chăng là ngõ được bê tông hóa, nhưng hình chữ chi thì vẫn hệt như 20 năm trước. Tôi đã bị lạc một hồi khi loanh quanh từ nhà ông từ giữ đền Hai Bà Trưng ra đường với mấy cáingã ba rẽ rồi lại rẽ. Trong những ngõ nhỏ, nhà dân lô nhô cái cao cái thấp, hợp tuổi gia chủ nào thì quay hướng ấy, cửa nhà này có khi trông sang tường nhà kia vô cùng lộn xộn. Nhưngngọn gió sông Hồng mát mẻ, hào phóng đang lồng lộng thổi dọc con phố là của trời cho. Hẳn là một lần qua đây, nhạc sĩLê Vinhđãcảm nhận rất sâu sắc để viết nên ca từ thật đẹp, khắc sâu vào lòng người Hà Nội: “Ngõ nhỏ phố nhỏ nhà tôi ở đó, đêm nằm nghe trong gió, tiếng sông Hồng thở than”.
Nhìn lên phía Bắc, cầu Long Biên đẹp như một nét vẽ treo giữa sông nước-thiên nhiên. Gần đây, Chính phủ đã chính thức phê duyệt phương án cải tạo cầucủa Bộ Giao thông vận tảiđể giữ lại công trình lịch sử văn hóa của Thủ đô, rất hợp vớinguyện vọng của dân. Nhìn xuôi vềphía nam, cầu Thanh Trìhiện đại, cong cong như một dây cung cực lớn đánh dấu bước phát triển mới của thành phố trong thời kỳ hội nhập với kinh tế - văn hóa thế giới. Cảng sông Phà Đen cũng đang được nâng cấp, mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động. Ngay gần đó, những mố cầu Vĩnh Tuy nối nhau chạy từ cuối phố Minh Khai qua thân đê vươn cao trên mặtsông đang mùa lũ.
Về đềnHai Bà Trưng ở phường Đồng Nhânthắp nén hương thơm trước anh linh Hai Bà, uống ngụm nước vối thơm dìu dịu được ủ trong giỏ tre, lại thấy như được trở về với hồn cốt của làng Đồng Nhân còntiềm ẩn và được nhân dân giữ gìn, truyền từ đời này sang đời khác trên rẻo đất bãi Cơ Xá Nam bên dòng sông Hồng - Sông Mẹ của Thăng Long - HàNội ngàn năm. Bà cụ đã ngoài 80 tuổi, tóc trắng như mây, thần thái vẫn tinh anhtuần Rằm mồng Một nào cũng ngồi ở hiên đền, vừa nhai trầu bỏm bẻm, vừathư thả phát lộc Hai Bà cho khách viếng thăm. Cụ bảo tôi: “Bao đời nay, Ngài vẫn ngự ở đây, thiêng lắm! Làng Đồng Nhân thành phố đã 60-70 năm rồi, các cháu bây giờ được học nhiều, nhưng cái gốc thì phảinhớ mà giữ lấy”.
Phạm Kim Thanh
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.