Ở Hà Nội có những con phố cực ngắn, nếu đi xe máy vừa vào số, tăng ga là đã sang phố khác?! Phố Hồ Hoàn Kiếm là ngắn nhất, riêng quận Ba Đình đã có 3 phố ngắn là Bà Huyện Thanh Quan, Mai Xuân Thưởng, Đặng Tất.
![]()
Ở Hà Nội có những con phố cực ngắn, nếu đi xe máy vừa vào số, tăng ga là đã sang phố khác?! Phố Hồ Hoàn Kiếm là ngắn nhất, riêng quận Ba Đình đã có 3 phố ngắn là Bà Huyện Thanh Quan, Mai Xuân Thưởng, Đặng Tất.
Phố Bà huyện Thanh Quan dài khoảng 240 mét, đi từ đường Điện Biên Phủ đến phố Lê Hồng Phong. Phố thuộc phần đất là doanh trại nằm ở góc Tây Nam toà thành Thăng Long (đời Nguyễn). Thời Pháp, phố có tên Công sứ Mô-ren. Nay, trên phố có nhiều cơ quan ngoại giao lớn.
Bà huyện Thanh Quan là nữ sĩ nổi tiếng hồi đầu thế kỷ XIX. Tên thật của bà là Nguyễn Thị Hinh, người làng Nghi Tàm, nay thuộc xã Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà là Lưu Nguyên Ôn (l804-1847), người làng Nguyệt Áng, Thanh Trì, Hà Nội. ?ng đỗ cử nhân năm 1828 và làm tri huyện Thanh Quan, Thái Bình cũ. Do đó mà người đương thời gọi bà là Bà huyện Thanh Quan.
Bà nổi tiếng hay thơ Nôm và làm một ít thơ chữ Hán. Thơ chữ Nôm của bà đặc sắc, đài các, trau chuốt mà giản dị. Một số bài này vẫn còn truyền tụng nhu: Trấn Bắc hành cung, Qua đèo ngang, Chơi đài khán xuân, Tức cảnh chiều thu...Câu thơ: Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Thành quách lâu đài bóng tịch dương trong bài Thăng Long hoài cổ là câu thơ của muôn đời. Thơ của bà thường là đề vịnh nhưng thực ra không chú tâm tả cảnh mà chủ yếu để gửi tình. Bà đã từng được vua Tự Đức triệu vào cung trao cho chức Cung trung giáo tập, dạy công chúa và cung nhân. Khi về sống tại làng Nghi Tàm bà đã từng giúp dân làng làm sớ xin miễn thuế. Giai thoại kể rằng: Một lần, ông huyện vắng nhà. Có người phụ nữ tên là Nguyễn Thị Đào đưa đơn xin bỏ chồng, vì người chồng tệ bạc. Bà huyện Thanh Quan cảm thương cho số phận chị em cùng giới với mình, không cần xét hỏi gì dài dòng, phê ngay vào lá đơn: Phó cho con Nguyễn Thị Đào/Nước trong leo lẻo cắm sào đợi a/ lChữ rằng: xuân bất tái lai /Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già. Cô Đào cứ theo lời phê về bỏ chồng. Anh chồng kiện quan huyện. Nghe nói sau đó, ông huyện là Lưu Nguyên Ôn bị cách chức vì nhiều lý do, trong đó có cả việc để cho bà huyện phê đơn này nữa.
Phố Mai Xuân Thưởng dài 80 mét, đi từ phố Thuỵ Khuê đến phố Phan Đình Phùng, nhìn thẳng vào cửa sau của Chủ tịch phủ. Phố này là một đoạn cũ của dãy hào chạy bao quanh mang cá ở góc đông- bắc thành Thăng Long, đời Nguyễn. Thời Pháp thuộc, đây là phố Hậu Quân Chất .Tên Mai Xuân Thưởng được đặt từ sau 1945.
Mai Xuân Thưởng người làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn, sau đổi thành An Nhơn, tỉnh Bình Định, đỗ cử nhân năm 1884. Sau khi Huế thất thủ, ông dấy quân khởi nghĩa chống Pháp. Nghĩa quân Mai Xuân Thưởng phát triển vào Phú Yên, ra Quảng Ngãi, bắt giam quan lại đớn hèn, tóm cổ Việt gian. Thực dân Pháp cùng bọn tay sai dốc sức ra đàn áp cuộc khởi nghĩa, đến tháng 6/1887, Mai Xuân Thưởng sa vào tay giặc, bị chúng xử bắn tại chỗ.
Phố Đặng Tất dài gần 235 mét, đi từ phố Quán Thánh sang đến phố Phan Đình Phùng. Đây nguyên là địa phận thôn Quan Quang thuộc tổng Yên Thành, huyện Vĩnh Thuận cũ. Tới giữa thế kỷ XIX, thôn này đổi tên ra là Yên Quang. Tại đây, xưa có một cái chợ cũng khá đông người lui tới gọi là chợ Yên Quang. Ca dao cũ có câu: Hỡi cô đội nón ba tầm/ Cô về Yên Phụ, phiên rằm cô sang/ Phiên rằm chợ chính Yên Quang/ Yêu hoa anh đợi hoa nàng mới mua. Thời Pháp thuộc đây là phố Bà ô-ti-giông (rue Madame Auligeon). Sau năm 1945, mới đổi ra là Đặng Tất. Hiện phố còn lại nhiều nhà Pháp cũ, rất yên tĩnh, ít người qua lại.
Đặng Tất người Hao Châu, tỉnh Thừa Thiên cũ, sau di dời tới ở huyện Can Lộc(Nghệ An) và là thân phụ của Đặng Dung. Cuối đời Trần ông làm Đại tri châu Hoà Châu và là một tướng tài. Vào năm 1407, Trần Ngỗi xưng vua-Giản Định, đóng ở Nghệ An, Đặng Tất liền đem quân ra giúp vua Giản Định, tiêu diệt giặc Minh. Ông còn đã khôi phục lại đất nước ở vùng Ninh Bình. Giữa lúc ông đang chuẩn bị giải phóng Đông Đô thì bị vua Giản Định ghép tội phản nghịch và bị xử trảm cùng Nguyễn Cảnh Chân (tháng 3/1400).
Phố Hồ Hoàn Kiếm dài vẻn vẹn có 52 mét, là phố ngắn nhất Hà Nội, đi từ phố Cầu Gỗ (gần ngõ Cầu Gỗ, vào chợ Hàng Bè) đến phố Đinh Tiên Hoàng, trông sang hồ Hoàn Kiếm. Thời Pháp thuộc phố này là phố Philácmônich (Rue de la Phiharmonique). Tên nôm của phố là ngõ Hàng Chè. Sau 1945, phố được đổi tên thành phố Hồ Hoàn Kiếm.
Truyền thuyết về hồ Hoàn Kiếm có lẽ không người dân nào không biết? Gần đây một giáo sư sử học đưa ra một giả thuyết rùa trả gươm ở Hồ Hoàn Kiếm có nguồn gốc từ một loài rùa ở Tây Đô -Thanh Hoá. Nếu giả thuyết này được sáng tỏ như vậy thì sự tích hồ Hoàn Kiếm thêm phần ly kỳ, hấp dẫn.
Phố này có cửa hàng sách, trước đây mang tên "Hà Nội-Huế-Sài Gòn", nay vẫn còn nhưng mang tên khác và người vào mua sách không còn tập nập như xưa. Nhà hát múa rối Thăng Long trên phố được xây trên nền rạp chiếu bóng Hoà Bình cũ "đỏ đèn'’ suốt tuần để phục vụ khán giả nước ngoài. Khi màn đêm bắt đầu buông xuống từng đoàn xe khách nối đuôi nhau chở khán giả đến xem múa rối. Có thể nói đây là điểm đến không thể thiếu của du khách nước ngoài ở Hà Nội. Trên phố, có nhiều hàng nộm “đặc sản” dành cho tầng lớp thanh niên, bán ở vỉa hè vào buổi tối.
Theo Hà Nội Ngàn Năm