(HNM) - Nỗi ám ảnh đó đang thường trực và ngày càng lớn. Điều này được chính hai nhân vật từng giữ trọng trách tại ủy ban 11-9 của Mỹ: cựu Chủ tịch Thô-mát Kin và cựu Phó Chủ tịch Li Ha-min-tơn thừa nhận trong một bài báo viết chung đăng trên tờ “Bưu điện Oa-sinh-tơn” số ra ngày 9-9 vừa qua.
Du khách chụp những lá cờ ghi danh cách nạn nhân của thảm họa khủng bố 11/9 tại công viên Battery Park, New York.
Thực tế cũng chứng minh rằng, 6 năm qua, nước Mỹ đã tiến hành nhiều cuộc cải cách ở cả trong nước và ở ngoài nước nhằm hạn chế tối đa các hoạt động khủng bố nhằm vào nước Mỹ; nhưng hiệu quả đem lại không được như kỳ vọng.
Sau sự kiện 11-9-2001, hàng loạt cơ quan quyền lực góp phần gia tăng nỗ lực chống khủng bố của Mỹ đã ra đời. Đó không chỉ là việc thành lập Bộ An ninh nội địa, tạo dựng công cụ gắn kết toàn bộ 16 cơ quan tình báo của Mỹ bằng quyết định cho ra đời Cơ quan tình báo quốc gia (DNI), mà còn là việc thiết lập Trung tâm chống khủng bố quốc gia và thông qua luật để cấp hàng tỷ USD nhằm tăng cường an ninh nội địa. Trên vũ đài quốc tế, với ngọn cờ chống khủng bố, Mỹ cũng đã kêu gọi được sự hợp tác, chia sẻ trách nhiệm của không ít quốc gia. Tuy nhiên, điều nước Mỹ nhận được lại không như mong muốn. Đó là sự yên ổn của người dân sau mỗi ngày làm việc căng thẳng. Đâu đó, ngay trên lãnh thổ nước Mỹ, tiếng chuông báo động hay tín hiệu nâng mức báo động chống khủng bố thỉnh thoảng vẫn vang lên. Một vấn đề được quan tâm và luôn làm đau đầu giới chức Mỹ là công dân của họ ra nước ngoài đã trở thành mục tiêu tấn công số một mà các phần tử khủng bố ở một số quốc gia nhắm tới. Con số lính Mỹ tử trận ở hai chiến trường nóng bỏng nhất hiện nay dưới tên gọi chống khủng bố là I-rắc và áp-ga-ni-xtan không ngừng tăng. Có thể đó là do các biện pháp chống khủng bố của Mỹ thiếu trọng tâm, trọng điểm và tính đồng bộ như kết luận của ông Thô-mát Kin và ông Li Ha-min-tơn. Nhưng theo nhiều nhà phân tích, nguyên nhân chính lại nằm ở chính cách thức mà Mỹ đã và đang tiến hành trong cuộc chiến chống khủng bố.
Trước thời điểm ngày 11-9-2001 trở thành sự kiện bi thương của nước Mỹ và sẽ mãi mãi đi vào lịch sử quốc gia Bắc Mỹ này, dường như ít ai biết đến cái tên Bin La-đen hay tổ chức Hồi giáo cực đoan An Quây-đa. Sau khi tòa nhà Trung tâm Thương mại - biểu tượng của nền kinh tế Mỹ sụp đổ, Oa-sinh-tơn đã tìm ra một An Quây-đa ở vị trí trung tâm trong một âm mưu có quy mô toàn cầu do các tổ chức vũ trang Hồi giáo tiến hành; đồng thời hướng sự chú ý vào I-rắc với lập luận Xát-đam Hút-xen cũng tham gia vào âm mưu đó và có mối liên hệ chặt chẽ với Bin La-đen. Thế là cuộc chiến chống I-rắc bùng nổ với các bước như thể đã được thực hành ở đâu đó trên xa mạc Nê-va-đa của Mỹ. Nhưng kết quả cho đến nay vẫn khá mù mờ khi Lầu Năm Góc không những không tìm thấy chứng cứ về việc chính quyền của ông Xát-đam Hút-xen sở hữu vũ khí giết người hàng loạt... Ngược lại, cơn lốc tốc chiến tốc thắng của Mỹ tại I-rắc dường như đã đem lại một môi trường mới cho An Quây-đa, đưa tổ chức này thành một thứ chủ nghĩa nguy hiểm: chủ nghĩa An Quây-đa. Tệ hại hơn là thứ chủ nghĩa cực đoan nhuốm màu sắc tôn giáo này mượn danh nghĩa chống sự nô dịch của Mỹ và nhờ đó đã thu hút được sự tham chiến của nhiều tổ chức Hồi giáo vũ trang nhỏ lẻ ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở Trung Đông và Bắc Phi. Bên cạnh đó, sự thiên vị của Oa-sinh-tơn đối với Ten A-víp cũng làm dấy lên sự bất bình trong thế giới A-rập, nơi có không ít tổ chức Hồi giáo vũ trang hoạt động.
Bằng cách nào một hình ảnh Mỹ đủ tin cậy để thu phục được nhân tâm và sự cảm thông của 1,3 tỷ tín đồ Hồi giáo trên thế giới hiện nay để giúp Mỹ thoát khỏi nguy cơ của chủ nghĩa cực đoan ? Câu trả lời không dễ gì có được trong ngày một ngày hai. Và như thế, cứ mỗi dịp này là thế giới lại phấp phỏm về một nỗi đau mà cả nhân loại không chờ đợi.
Hà Ngọc
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.