Sau các tập thơ “Rồi mình cũng xa lạ nhau” (2018), “Mình mắc cạn vào nhau” (2020), “Ở đậu trong nhau” (2021), “Chín nhánh da vàng” (2022), mới đây nhà thơ Khét (Trần Đức Tín) đã xuất bản “Nở thêm một cánh chuồn chuồn”.
Đọc thơ Khét, tôi luôn cảm thấy thơ anh là kết tinh của những nỗi buồn và sự trăn trở về kiếp người. Ngay cả tập thơ “Nở thêm một cánh chuồn chuồn”, cái tên đầy hy vọng và sự sống nhưng dường như vẫn mang một gam màu buồn trải dài suốt tập thơ.
Thi tập chỉ vỏn vẹn 33 bài, nhưng dường như trĩu nặng những nỗi niềm mà tác giả gửi gắm. Đó là tiếng lòng khắc khoải của một kẻ còn nặng nợ với quê hương, là sự suy tư về kiếp sống của mình, là những thanh âm trầm buồn của tình yêu và của quá khứ... Những nội dung ấy được bố trí trong ba phần: “Về sự tận cùng của thơ & người”, “Cái yêu mang hình chóp bẻ” và “Sinh ra nhau”.
Ngay từ bài thơ mở đầu, bạn đọc sẽ cảm nhận ngay được nỗi niềm của một kẻ rời quê xứ ra đi như trốn chạy kiếp sống cơ cầu: “Tôi lại cùng dòng người/ bỏ quê/ trong đêm... trong đêm/ chúng tôi quờ quạng/ bỏ quê/ ú ớ/ tiếng đồng hương đắng cổ họng/ bao thế hệ đã đi suốt mấy nghìn đêm...” (“Đêm xứ này”). Chữ “lại” cho thấy Khét không phải lần đầu “dứt áo ra đi”, nhưng tình quê hương, sự day dứt khi phải xa quê lìa xứ cứ mãi khiến cho trái tim anh oằn nặng nỗi day dứt. Và vì “quê hương ở phía sau/ nhưng mắt ta lại mọc phía trước/ chúng mình chưa bao giờ nhìn chính diện quê hương” (“Này em”), tác giả lại càng khắc sâu thêm nỗi hoài hương vào lòng mình.
Nhà thơ Trần Đức Tín dường như chưa bao giờ ngưng trăn trở về đời sống của mình. Trong “Chọn”, anh tự hỏi: “Tôi, cách nào để nảy mầm”; trong “Họ và ta”, anh ngẫm: “Sao ta không là gỗ đá/ đẽo mình để ghi/ sao ta không là tiếng tù và/ nhảy vào lửa”; hay trong “Giấc mơ kí sinh”, anh trăn trở: “Vậy chúng ta là gì/ như mọi sinh vật khác/ mở mắt và đi/ làm thứ gì đó”... Hàng loạt những câu hỏi xuất hiện trong các bài thơ như một sự khát khao tìm về bản thể của con người với đích đến cuối cùng của hành trình truy tìm bản thể của anh là làm sao để tác giả và “em” với “chúng ta” sống ý nghĩa hơn.
Thơ của Khét thấp thoáng không biết bao nhiêu người, mà những bóng hồng có lẽ là nhiều hơn cả. Chẳng ai biết đó là ai. Trong tập thơ này, dấu chân anh đặt ở Cà Mau, rồi ở Pù Luông, Cao Bằng, Huế... nên việc những đóa hồng ngát hương lên trong vườn thơ là điều dễ hiểu. Nhưng ở trong thơ, cũng có những mối tình khiến cho anh “còn chút gì để nhớ”. Những lời hoài niệm ấy tình lắm, đẹp lắm mà đượm buồn. Đó là trong “Thương thương”, anh nhớ nhung: “Em đã mang trăng đi đâu/ tôi quờ quạng mấy mùa đất nước”. Trong “Mùa len tôi”, anh tiếc nuối: “Em mang câu lượn đi rồi/ bỏ tôi lại với mùa len trâu/ lầm lũi”... Khi “em” đi, “em” luôn lấy mất một cái gì đẹp lắm, mà mãi mãi trong đời “tôi” luôn ưu tư về những ngày tháng cũ như giấc mơ dang dở.
Đọc thơ Khét khiến tôi nhớ đến câu ngạn ngữ rằng “nỗi buồn là di sản của quá khứ, sự nuối tiếc là nỗi đau của ký ức”. Dường như Khét luôn mang theo di sản của quá khứ và nỗi đau của ký ức, đến độ những điều đó đã làm ám ảnh thơ của anh, mãi chưa thoát ly được. Nhưng có lẽ nỗi buồn chính là hạt giống thơ của Khét, đó là động lực anh vươn lên, chiêm nghiệm thêm về cuộc sống để rồi cuộc đời lại “nở thêm một cánh chuồn chuồn”.
Nhà thơ Khét tên thật là Trần Đức Tín, sinh năm 1989 tại Cà Mau. Với tập thơ “Chín nhánh da vàng”, Khét đã được trao Giải thưởng Tác giả trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.