Cuối những năm 20 của thế kỷ trước, người được mệnh danh “Nhà văn của vòng nguyệt quế thời tước sĩ” Scott Fitzgerald có nói: “Để có một bộ tiểu thuyết thì Ernest Miller Hemingway phải thay một người đàn bà”. Lúc đó chỉ là bông đùa, chính ông cũng không nghĩ tới. Thế nhưng về sau câu nói đó trở thành lời tiên tri ứng nghiệm.
Nhà văn Mỹ Ernest Miller Hemingway (1899-1961), đạt giải Nobel Văn học năm 1954.
Hedrei Richardson
Năm 1920, khi mới quen Hedrei ở Chicago, Hemingway đang trong cảnh khốn khó. Một năm trước đó, sau thế chiến lần thứ nhất từ chiến trường trở về, trên thân mình có cả trăm thương tích, Hemingway không có chút trợ cấp giải ngũ hoặc thương tật nào, bơ vơ không nơi nương tựa.
Nhiều tháng liền miệt mài sáng tác nhưng không thành, ông đành rời bỏ quê hương ở vùng Saint Louis bang Missouri đến Chicago kiếm sống. Thế rồi số phận đã mỉm cười với ông, ông may mắn gặp Hedrei. Hedrei hơn ông 8 tuổi. Họ yêu nhau tha thiết rồi kết hôn vào tháng 9/1921.
Cuộc hôn nhân này là một bước ngoặt trong đời Hemingway. Đang túng quẫn, bỗng dưng Hedrei được thừa kế di sản một khoản tín dụng tới 50.000 USD, lãi suất hàng năm 3.000 USD. Nhờ khoản tiền này mà Hemingway đưa vợ sang châu Âu tham quan du lịch, đọc tác phẩm văn học hiện đại, học hỏi các bậc thầy trường phái ý tưởng, gặp nhà văn nữ Stein (Gertrude). Thời gian này ông viết được một số truyện ngắn: Con mèo trong mưa, Một con người không hề chiến bại, Dòng sông đôi trái tim vàng… đặc biệt đã xuất bản được tiểu thuyết Mặt trời vẫn mọc trong năm 1926 khiến ông trở nên nổi tiếng.
Nhà văn Hemingway tác giả của 4 bộ tiểu thuyết lớn: Mặt trời vẫn mọc, Giã từ vũ khí, Chuông nguyện hồn ai, Ông già với biển cả, và quả thực trước sau ông có 4 người vợ ứng với 4 bộ tiểu thuyết đó. |
Có thể nói, nếu không có sự góp sức của Hedrei, Hemingway không có Mặt trời vẫn mọc. Điều trớ trêu là mặt trời chẳng những vẫn mọc mà rồi ra đến lượt thì mặt trời vẫn lặn... Một người đàn bà khác đầy nhan sắc sắp thay chỗ của Hedrei.
Paulin Paphaf
Paulin là con nhà giàu. Khi mới quen Hemingway, tuy tuổi 30 (hơn Hemingway 3 tuổi), nhưng dáng vóc mảnh mai, lại yêu thích thời trang nên trẻ hơn nhiều với tuổi. Paulin có học vấn khá cao, là biên tập viên tạp chí Thời trang của Pháp, thích đọc tiểu thuyết hiện đại, phê bình văn học…
Từ trước Paulin vốn đã là bạn thân thiết của gia đình Hemingway. Họ thường cùng nhau dạo chơi, thăm thú đó đây, đôi khi còn nghỉ lại nhà, dần dà lửa tình giữa Hemingway với Paulin đã bén. Hedrei thì chân chất, tối dạ không mảy may hay biết. Khi việc đã rõ thì vợ chồng bắt đầu lục đục, cãi vã, ly thân rồi ở riêng.
Tháng 4/1927 Hemingway và Hedrei ra toà ly dị. Một tháng sau, Hemingway và Paulin làm hôn lễ tại một nhà thờ thiên chúa giáo. Họ cùng xuống tàu biển từ Paris đi ngang Havana đến Key West mũi cực nam quần đảo Florida nước Mỹ. Đó là một làng chài phong cảnh hữu tình, khí hậu ấm áp. Tại đây Paulin sinh hạ con trai đầu lòng, Hemingway thì viết xong cuốn Giã từ vũ khí, tác phẩm làm Hemingway trở thành nhà tiểu thuyết nổi tiếng thế giới.
Masse Helhonn
Hemingway là nhà văn luôn lấy văn nghiệp làm đầu. Ông tận dụng mọi cơ hội tiếp xúc với cuộc sống, thâm nhập tìm hiểu về mọi phía của cuộc sống, tích luỹ vốn sống. Vì vậy ông luôn xa nhà chu du thiên hạ, chẳng mấy khi để tâm tới vợ con. Tình trạng đó kéo dài đã đưa Paulin đến chỗ bất mãn và, việc xung đột giữa hai người là không tránh khỏi. Phong cách sinh hoạt phóng túng của nhà văn đã khiến vợ ông buồn nản, đổi lại nhà văn nghĩ rằng ông luôn bị trói buộc bởi vợ con.
Giữa lúc đó một người đàn bà khác xuất hiện. Cuối tháng 2/1937 Hemingway nhận lời mời của Liên đoàn báo giới Nam Mỹ, tham gia công tác báo chí, đưa tin về cuộc nội chiến Tây Ban Nha. Tại đây ông gặp lại nữ ký giả Masse Helhonn, người ông đã quen trước đây ở Key West, cũng đã thầm yêu nhau, nhưng khi đó sợ Paulin nên không dám. Còn giờ đây, trong công tác gian khổ hiểm nguy, tình yêu càng thắm thiết.
Tháng 11/1938, Hemingway trở về New York, cùng Paulin sống trong một chung cư. Về sau do bất hoà, hai người lần lượt rời New York. Thoạt đầu Hemingway sống trong một trang trại hẻo lánh, phụ cận Havana của Masse thuê trước đó. Viết Chuông nguyện hồn ai, rồi cùng Masse đến bang Idaho tiếp tục viết.
Tháng 4/1940 nhờ việc đã viết xong tiểu thuyết này, Hemingway thoả thuận với Paulin mỗi tháng phụ cấp 500 USD tiền sinh hoạt và nuôi dưỡng hai con. Tháng 11 ông lại chia tay với Paulin. Ít lâu sau ông và Masse cử hành hôn lễ tại bang Wyoming.
Cưới nhau được hơn một năm, quan hệ giữa hai người đã sứt mẻ. Hemingway theo chủ nghĩa nam tính, lấy mình làm trung tâm cả nhà. Bạn bè qua lại thăm thú liên miên, có người còn ở chơi nhiều ngày. Thế nên Masse luôn bận rộn khách khứa, trong khi bà là con người của công việc sự nghiệp, chí thú với nghề phóng viên, những khi rảnh việc bà lại lao vào viết.
Tháng 4/1944 Masse bay về Havana khuyên Hemingway sang chiến trường châu Âu, đưa tin về cuộc chiến đấu của Không quân hoàng gia Anh. Cử chỉ đầy thiện chí này của Masse là cơ hội đi tới hôn lễ lần thứ 4 của Hemingway.
Sang London Hemingway gặp Marie Wells. Năm đó Marie 36 tuổi (kém ông 9 tuổi), công tác tại Phòng thường trú của 3 tạp chí lớn Thời đại, Đời sống và Hạnh phúc tại London. Chồng bà lúc đó là phóng viên, người Australia, không sống thường xuyên ở London. Hemingway một mực theo đuổi Marie, cuối cùng chinh phục được bà.
Đầu năm 1951 Hemingway khởi sự viết Ông già với biển cả. Ngày 6/ 5/1952 lần đầu tiên Ông già với biển cả được đăng tải trên tạp chí Đời sống, một thành công vang dội. Số ra của tạp chí này bán được 5.000.000 bản. Năm 1953 tác phẩm này đoạt giải Presse. Năm 1954 Hemingway được tặng giải văn học Nobel.
Sau Ông già với biển cả tình hình sức khoẻ bắt đầu ảnh hưởng đến việc sáng tác của Hemingway.
Vào buổi sáng sớm ngày 2 /7/1961, ông đã kề miệng súng mà ông từng dùng để săn sư tử tại châu Phi, kết thúc đời ông một cách bi hùng.
Theo Văn Nghệ
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.