(HNM) - Nhà thờ ở xóm Dâu, thôn Phù Đổng II, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Cổng đền làm theo kiểu “tam môn”, ba cửa cuốn vòm, cửa giữa rộng và cao hơn hai cửa bên. Bốn chữ Hán đắp nổi “Đặng Trần gia miếu” (tạm dịch: Nhà thờ dòng họ Đặng Trần), được “đặt” ở vị trí trung tâm tầng 2 cổng chính.
Cổng và nhà thờ Trạng nguyên Đặng Công Chẩt
Qua cổng, rẽ phải vào nhà thờ Trạng nguyên Đặng Công Chất, bên trái là nhà thờ cụ Thái Bảo (Đặng Công Sắt). Bố trí bên trái (bên tả) là nhà thờ cha, bên phải (bên hữu) là nhà thờ con (Đặng Công Chất là con thứ 3 cụ Thái Bảo) thể hiện đạo lý kính trọng, tôn vinh bề trên.
Nhà thờ có kiến trúc hình chữ nhị, tòa tiền tế gồm ba gian hai dĩ, làm theo kiểu đầu hồi bít đốc tay ngai...
Hậu cung gồm ba gian hai dĩ, xây kiễu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta.
Nhà thờ Trạng nguyên Đặng Công Chất là nơi tưởng niệm, ghi nhớ và tôn vinh về 1 danh nhân có công với dân với nước ở thời Lê Trung Hưng. Theo sách Trần Đặng gia phả ký thì Đặng Công Chất sinh giờ Dần, ngày Tân Mão, tháng Kỷ Dậu, năm Nhâm Tuất (ngày 28 tháng 8 năm 1622) trong 1 dòng họ có nhiều người thành đạt trong học tập, nhiều người giữ trọng trách trong triều đình. Cụ tổ 7 đời là Tiến sỹ Trần Văn Huy, làm quan tới chức Thượng thư Bộ Hình, cụ tổ 4 đời là Tiến sỹ Đặng Công Toản, làm quan tới chức Binh Bộ Tả thị lang. Nhiều người đỗ tú tài, cử nhân, được giao trọng trách ở trấn xứ, phủ huyện. Sống trong 1 gia đình có nền nếp, được cha mẹ tạo dựng ý chí học tập, dung dưỡng lý tưởng thành người có ích, chăm lo rèn luyện nhân cách, năm 21 tuổi, Đặng Công Chất đỗ đầu bảng kỳ thi hương. Năm 40 tuổi dự thi đình (điện thí), đỗ Trạng nguyên. Đây là học vị cao nhất, danh giá nhất của chế độ khoa cử thời phong kiến. Thời Lê Trung hưng, hơn 200 năm, có 68 khoa thi, cả nước chọn được 5 Trạng nguyên, Đặng Công Chất là 1 trong 5 người giành được địa vị cao quý đó. Trong quan niệm truyền thống, người có danh (tiếng) trong thiên hạ cần 3 tiêu chuẩn: Lập công, lập đức, lập ngôn. Thi đỗ học vị Trạng nguyên là đã thành danh ở tiêu chuẩn lập công, nhưng Đặng Công Chất còn hoàn thành nhiệm vụ ở mức đặc biệt khi triều đình giao nhiệm vụ (năm 1665) “tuần nã giặc cướp” ở vùng Thiết Lâm, Nghệ An (nay là xã Đặng Lâm, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An). Đặng Công Chất còn lập công lớn, quy phục “cuộc nổi loạn của kiêu binh phủ Chúa” ngày 9 tháng 5 năm 1674. Phụng mệnh triều đìnhlàm Chánh sứ sang Trung Quốc năm 1682, khi về nước (năm 1683), do tài ngoại giao tạo mối quan hệ rất thân thiện giữa 2 nước, được thăng từ chức Kim tử vinh lộc đại phu lên chức Hình Bộ Thượng thư, chỉ 3 ngày sau được thăng lên chức Binh Bộ Thượng thư gia Tham tụng, khi mất được tặng chức Lại Bộ Thượng thư, hàm Thiếu bảo. Với quê hương, ông là người đứng ra hưng công 1 trong 2 ngôi nhà tiền tế ở Đền thờ Phù Đổng, lập nhà dậy học Xuân Phố. Học trường thầy Chất, có nhiều người đỗ đạt, nổi bật là Hoàng giáp Nguyễn Đương Hồ (?), ông Nghè Cháy, sau này là cháu nội, Tiến sỹ Đặng Công Diễn. Từ khi đỗ đạt đến lúc qua đời, Trạng nguyên Đặng Công Chất kinh qua nhiều chức vụ quan trọngtrong bộ máy chính quyền thời Lê Trung Hưng, trong đó có chức Tham tụng là người đứng đầu, quyền cao nhất trong hàng ngũ quan lại thời bấy giờ. Thể hiện chữ “đức” ở Đặng Công Chất là luôn chung thuỷ với người vợ ở quê và khéo léo từ chối ân Vua ban, gả công chúa khi đỗ Trạng nguyên. Khi thực thi việc tuần nã giặc cướp ở Nghệ An, ông dùng phương án “khuyên nhủ cho ra đầu thú”, rồi tâu xin triều đình cho người dân vốn là giặc cướp “có quyền công dân”, cấp đất canh tác, đất ở, giáo hóa cho họ phong tục thuần hậu. Dân làng Thiết Lâm nhớ ơn lập sinh từ thờ ông, “khi ông mất rồi, xã ấy có người thi đỗ làm quan đến chức Kinh Bắc Hiến phó, đến lễ tạ ơn ông ở từ đường làng Phù Đổng” (Trần Đặng gia phả ký tờ 10, dòng 10). Chữ “đức” còn thể hiện ở sự hiếu đễ, lòng trung thành. Đang ở quê chịu tang mẹ, vụ kiêu binh nổi loạn ngày 9 tháng 5, có lời Chúa nhắn gọi, ông lập tức về Kinh, khi tới Kinh ông không dùng vũ khí trấn áp nhưng thấy ông, “quân lính sụp cả xuống lạy và xin tạ tội” (ĐTGPK, tờ 11, dòng 9). Tình nghĩa giữa ông với thầy dậy học, Tiến sỹ Phạm Công Trứ, với bạn đồng liêu , Thượng thư Nguyễn Quốc Khôi thật cảm động. Khái quát về sở thích của vị đại quan, sách Đặng gia thế phả ghi: (Đặng Công Chất) không làm dinh thự và để của. Làm quan chẳng thiết lợi lộc, bao nhiêu bổng lộc đem cấp cho người thân thuộc, nhà không có của thừa,... Lúc bé thường ăn canh mướp, đến khi phú quý vẫn ăn canh mướp”. Trong lĩnh vực “lập ngôn”, Đặng Công Chất là đồng tác giả sách “Đại Việt sử ký toàn thư (phần Bản kỷ tục biên, viết xong năm 1665), sách “Đại Việt Lê triều Đế vương trung hưng công nghiệp thực lục”, viết năm 1676, bài thơ xướng họa với quan đại thần Trung Quốc Dịch Bất Miễn trong lần đi sứ 1682- 1683.
Đánh giá công trạng của Trạng nguyên Đặng Công Chất, PGS, TS Nguyễn Văn Nhật, Phó Viện trưởng Viện Sử học nói: “có thể khẳng định ông là một người có tài cao, đức trọng và đã góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng đất nước ở cuối thế kỷ XVII”. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử, thiên nhiên, ngôi đền còn giữ được như hiện nay là cố gắng lớn của chính quyền, dòng họ Đặng Trần, nhân dân làng Phù Đổng.
Minh Thúy
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.