Ít có một làng nhỏ nào lại có tên trên bản đồ thương mại thế giới sớm như Chu Đậu (xã Thái Tân, Nam Sách, Hải Dương). Qua “con đường gốm sứ” của các thương thuyền Hà Lan, Tây Ban Nha, gốm Chu Đậu đã có mặt ở nhiều quốc gia từ thế kỉ XVI. Làng gốm từng tàn tạ suốt mấy trăm năm giờ đang sống lại với nhiều ước mơ, với một người đàn ông cực kì mê gốm.
Ông Lưu có thể say sưa hàng giờ để nói về gốm Chu Đậu
Sáng như gương, mỏng như giấy, trong như ngọc, trắng như ngà, kêu như chuông, gốm Chu Đậu từng có thời kì phát triển rực rỡ từ thế kỉ XV đến đầu thế kỉ XVII. Nhưng một cuộc binh đao lớn giữa vua Mạc với chúa Trịnh năm 1592 ở vùng Nam Sách, quê nhà Mạc, đã tàn phá làng gốm. Gốm Chu Đậu thất truyền từ đó.
Một trong những hiện vật gốm Chu Đậu nổi tiếng nhất và có lẽ đắt giá nhất thế giới là chiếc bình hoa lam cổ hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Topkapi Sary ở thủ đô Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ và được coi là bảo vật quốc gia. Chiếc bình được mua bảo hiểm với giá 1 triệu USD, như vậy giá trị thực của nó lớn hơn gấp nhiều lần. Trên vai bình có dòng chữ: “Thái Hòa bát niên, Nam Sách châu, tượng nhân Bùi thị hý bút”, tạm dịch là: “Do nghệ nhân họ Bùi ở châu Nam Sách ngẫu hứng vẽ năm 1450”. Tin về số phận của chiếc bình gốm hoa lam cổ được nhắc đến lần đầu tiên quãng năm 1980 và người phát hiện lại là ông Makoto Anabuki, Bí thư thứ hai ĐSQ Nhật Bản tại Việt Nam. Một hiện vật gốm Chu Đậu khá nổi tiếng khác là chiếc bình tỳ bà cổ khai quật được từ con tàu đắm ở Cù Lao Chàm và đã được đem bán đấu giá ở Mỹ. Nó đã thuộc về ông Jules Speelman với cái giá kỉ lục hồi đó là 521 nghìn USD. Ngoài ra, còn có một chiếc bình rồng Chu Đậu cổ được đem giới thiệu tại Liên hợp quốc như một trong những biểu trưng của văn hóa Việt Nam. Hàng loạt sản phẩm gốm Chu Đậu khác đang được lưu giữ tại 46 bảo tàng quốc gia trên thế giới... Với những nét tô, vẽ, khắc, họa, đắp nổi phóng khoáng, trữ tình, với nước men sâu, đẹp, gốm Chu Đậu đã phản ánh sinh động thiên nhiên, cuộc sống của cư dân vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng thời đó qua hình ảnh người đội nón, cô gái áo tứ thân, cậu bé thổi sáo chăn trâu, một cành đào khoe sắc tươi xinh, những con cò lặn lội ven sông...
Đối với nhiều người, có lẽ ông Nguyễn Văn Lưu, Giám đốc Xí nghiệp Gốm Chu Đậu hơi đặc biệt. Không phải người làng gốm nhưng hẳn ít có người Chu Đậu nào lại mê gốm Chu Đậu như ông dù ông mới chỉ tìm hiểu về gốm, chơi gốm quãng chục năm. Hàng trăm bình, lọ, liễn... gốm Chu Đậu cổ được ông cất công mua về, cả những cái đĩa, cái tách, nghiên mực... cổ đã vỡ nát, sứt sẹo. Ngoài sưu tập như một thú chơi, đấy còn là những hiện vật vô giá để ông nghiên cứu, tìm hiểu về vùng gốm này. Ông Lưu mê gốm đến mức cực đoan, đến mức ông nâng gốm Chu Đậu lên, gọi gốm Chu Đậu là gốm đạo, giống như cách người Nhật Bản tụng trà đạo, người Trung Hoa vinh xưng võ đạo... Không biết tìm hiểu ở đâu nhưng ông quả quyết rằng, trà đạo Nhật Bản được hình thành chính nhờ vào gốm Chu Đậu với những bộ đồ trà đạt đến độ tinh xảo về thẩm mỹ, công phu về quá trình chế tạo.
Vẽ hoạ tiết trên bình tỳ bà
Cuộc hồi sinh của gốm Chu Đậu được bắt đầu từ lá thư của Makoto Anabuki gửi Bí thư Tỉnh ủy Hải Hưng Ngô Duy Đông năm 1980. Sau đó, hàng loạt cuộc khai quật được tiến hành. Và số phận của một trong những làng gốm thịnh vượng nhất dần dần trở nên rõ ràng. Nhất là khi năm 1994, một con tàu Thái Lan bị đắm tại vùng biển Cù Lao Chàm được trục vớt còn nguyên một khối lượng lớn cổ vật, trong đó có hơn 400 nghìn đồ gốm, chủ yếu là gốm Chu Đậu thì giới kinh doanh, sưu tập đồ cổ và cả nhiều nhà khảo cổ học bắt đầu lên cơn sốt săn tìm. Từ năm 1986 đến nay, đã có 637 đoàn khách trong và ngoài nước, trong đó có 350 đoàn quốc tế, nhiều nhất là Nhật Bản, Pháp, Mỹ về thăm làng gốm, chưa kể hàng nghìn dân chuyên săn tìm đồ cổ. Nhưng cũng phải một thời gian tương đối lâu sau đó, mới có một dự án khôi phục làng gốm.
Ông Lưu gắn bó với Xí nghiệp Gốm Chu Đậu từ khi nó mới ra đời, năm 2001. Xí nghiệp có quy mô 3,5 ha, tập trung chừng 200 công nhân và một số nghệ nhân có tiếng ở làng. Ông Lưu còn mời một số họa sĩ lĩnh vực mỹ thuật ứng dụng tư vấn cho các công nhân. Cái khó là tìm ra công thức tạo ra từng loại gam màu, đặc biệt là các màu men nổi tiếng của gốm cổ như: men trắng trong, men hoa lam, men ngọc, men xanh lục, xanh rêu, men tam thái... Những cái đó, sau một thời gian thợ gốm Chu Đậu đều đã làm được. Trong năm tiêu chí đỉnh cao của gốm, sáng như gương, mỏng như giấy, trong như ngọc, trắng như ngà, kêu như chuông, chỉ còn yếu tố thứ hai là gốm Chu Đậu bây giờ chưa đạt tới. Những chiếc bình tỳ bà, bình củ tỏi... Chu Đậu giờ đều có độ đẹp về dáng, sáng về men. Ông Lưu đang cố gắng tìm tòi, thử nghiệm chế tác để dòng gốm đạt được ba cái đẹp: Nhìn đẹp, nghe đẹp, sờ đẹp, cũng như vươn tới yếu tố thứ hai trong các tiêu chí đỉnh cao của gốm. Trước mắt, ông Lưu muốn tập trung phát triển xí nghiệp gốm này rồi sau đó hỗ trợ các lò gốm gia đình nhằm vực dậy cả làng nghề.
Cách tiếp thị cho gốm Chu Đậu của ông Lưu quả là độc đáo và có lẽ cũng là cách tiếp thị hiện đại nhất cho một thứ sản phẩm văn hóa truyền thống. Gốm Chu Đậu không chỉ có mặt trên sàn giao dịch điện tử mà khách tham quan, du lịch còn được mời trực tiếp tham gia quy trình làm gốm: tạo dáng, vẽ, viết chữ, kí tên lên sản phẩm... Sắp tới, sẽ có một chương trình du lịch làng nghề được triển khai. Năm 2003, “công” gốm Chu Đậu đầu tiên đã được xuất khẩu đi Tây Ban Nha. Sau hàng trăm năm lụi tàn, sau nhiều năm lay lắt, giờ gốm Chu Đậu đã được xuất khẩu đi 54 nước trên thế giới. Con số này có lẽ không nhiều nhặn lắm so với con số 32 quốc gia mà gốm Chu Đậu từng “đặt chân” đến hồi thế kỉ XVI, XVII qua “con đường gốm sứ” nhưng điều ấy đã là đáng mừng. Năm 2004, xí nghiệp đạt doanh thu 4 tỷ đồng, trong đó có 2 tỷ đồng từ sản xuất. Năm nay, ông Lưu hào hứng: - Cố gắng đạt doanh thu 20 tỷ, riêng thu từ sản xuất là 5 tỷ đồng. Thu nhập bình quân mỗi tháng của thợ gốm Chu Đậu đã ngót 700 nghìn đồng, con số không nhỏ ở vùng quê này.
Ở tuổi tri thiên mệnh, người đàn ông mê gốm tới mức cực đoan ấy còn ấp ủ một dự định nữa: Gắng thu thập nốt tài liệu để chứng tỏ đồ đoán của ông rằng gốm Chu Đậu phải xuất hiện từ thế kỉ thứ IX là đúng. Không hiểu các nhà khảo cổ học, các nhà nghiên cứu văn hóa lúc này đang ở đâu ? Nhưng dù vậy, giấc mơ của làng gốm đã rõ hình hài.
HNM
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.