70 năm đã trôi qua nhưng nạn đói năm 1945 vẫn còn là một nỗi đau lớn của dân tộc. GS. Văn Tạo- một trong 2 tác giả của cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam” cho rằng, số người chết có thể đã lên đến hơn 2 triệu người…
Nỗi kinh hoàng của một sự kiện lịch sử đau thương
Nạn đói năm 1945 đã từng được ví là “sự hủy diệt khủng khiếp” trong lịch sử vốn đã quá nhiều đau thương, mất mát của dân tộc Việt Nam. 70 năm đã trôi qua, nhưng những nỗi đau để lại từ “sự hủy diệt khủng khiếp” ấy dường như vẫn còn đó, khôn nguôi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng so sánh nạn đói năm 1945 ở Việt Nam với tổn thất của cuộc chiến tranh Pháp- Đức, Người viết “Nạn đói kém nguy hiểm hơn nạn chiến tranh. Thí dụ, trong 6 năm chiến tranh, nước Pháp chỉ chết 1 triệu người, nước Đức chỉ chết chừng 3 triệu người. Thế mà, nạn đói nửa năm ở Bắc Bộ ta đã chết hơn 2 triệu người…” (Trích Hồ Chủ Tịch hô hào chống nạn đói năm 1945).
Trong 6 tháng, số người chết vì đói ở Việt Nam lớn hơn cả số người chết vì chiến tranh ở Pháp trong 6 năm.
Nạn đói năm 1945 đã diễn ra vô cùng khốc liệt (Ảnh của cố nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh) |
Cho đến nay, nhiều tài liệu đã khẳng định, số người chết trong nạn đói kinh hoàng năm 1945 nhiều hơn con số 2 triệu, nhưng rất khó để có được số thống kê cụ thể.
Nạn đói năm 1945 diễn ra từ cuối năm 1944 đến tháng 5 năm 1945 với “địa bàn” chính từ tỉnh Quảng Trị trở ra Bắc Bộ với “đỉnh điểm” là tỉnh Thái Bình. Theo con số ghi chép từ cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” của GS. Văn Tạo và GS. Furuta Moto, ở xã Tây Lương (thuộc Tiền Hải- Thái Bình) nơi nạn đói diễn ra kinh khủng nhất, 66,66 % số dân của xã chết đói, trong đó rất nhiều gia đình chết cả nhà, nhiều dòng họ chết cả họ.
Thái Bình- nơi diễn ra nạn đói thảm khốc nhất |
Từ tháng 1/1945 đến tháng 5/1945, xác người chết nằm ngổn ngang từ Quảng Trị đến khắp các tỉnh miền Bắc. Ở đâu người ta cũng nhìn thấy xác người chết đói. Trong 70 năm qua, những hố chôn người tập thể vẫn là nỗi đau đớn, ám ảnh khôn nguôi của biết bao thế hệ. Trong ký ức của nhiều người vẫn còn giữ lại hình ảnh những chiếc xe bò chở xác người trên những phố Hà Nội buổi sáng sớm, hình ảnh người nằm chết la liệt ở khắp các con đường, hình ảnh những người kiệt sức, còng queo xếp hàng dài nối nhau đi xin ăn…
Nói về tính tàn khốc của nạn đói, cuốn “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” viết, “Nạn đói vô cùng khủng khiếp. Nó kéo dài cái chết khiến nạn nhân bị các cơn đói dày vò, đau khổ, tủi nhục. Nhìn thấy người thân chết mà không cứu được, biết đến lượt mình rồi sẽ chết mà không thoát được. Muốn tìm cái sống đã phải dứt bỏ nhà cửa, quê hương, mồ mả tổ tiên ra đi, mong sao được cứu sống, nhưng rồi lại chết gục ở đầu đường xó chợ…”.
Cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” còn miêu tả hình ảnh những trẻ em nhay vú mẹ đã chết, người đi lĩnh chẩn bế đứa con trên tay nhưng con đã chết…
Cuốn sách viết, “Nạn đói đã chôn vùi nhân phẩm con người. Nạn đói diễn ra vô cùng thảm khốc. Hàng nghìn hộ chết cả nhà, nhiều dòng họ chết cả họ, hàng chục xóm làng chết cả xóm, cả làng”.
Tội ác chiến tranh
Xác người ở khắp nơi... (Ảnh: Võ An Ninh) |
Trong tác phẩm “Chuyện cũ Hà Nội” của nhà văn Tô Hoài, ông từng viết, “Nói bao nhiêu về cảnh đói 1944-1945 cũng vẫn chưa thấm. Chữ nghĩa tôi run rẩy, thổi bay được. Khủng khiếp quá”.
… “Sau đảo chính mùng chín tháng Ba, lính Nhật đi đẩy người đói không xuể. Người ngồi, người chết la liệt các vỉa hè. Suốt ngày suốt đêm kéo xác chết lầm lũi qua”- Tô Hoài viết.
Cảnh đói cơ cực, đau thương của nạn đói năm 1945 cũng từng được miêu tả trong tác phẩm văn học nổi tiếng “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân.
… “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người…” (Trích “Vợ nhặt”).
Nguyên nhân của nạn đói kinh hoàng năm 1945 ở Việt Nam được cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” phân tích rất rõ.
Theo đó, Nhật thu gom lúa gạo, Pháp dự trữ lương thực phục vụ cho chiến tranh, trong khi thiên tai, lũ lụt, sâu bệnh gây mất mùa tại miền Bắc. Bệnh dịch tả lây lan nhanh và rộng khắp trong mùa lũ. Không dừng lại ở đó, Nhật còn bắt nhân dân ta phá lúa, hoa màu để trồng cây đay. Những biến động quân sự và chính trị dồn dập xảy ra đã ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất lương thực miền Bắc vốn dĩ đã thiếu gạo nên càng bị đói.
Cuốn “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” của GS. Nguyễn Văn Tạo và GS. Furuta Moto công bố năm 1995, đến nay đã 20 năm trôi qua, cuốn sách được xem là tư liệu quý giá về sự kiện lịch sử Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam. “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” là công trình khoa học công phu với nhiều tư liệu quý. Để tiến hành nghiên cứu, biên soạn công trình này, các tác giả đã phải dày công sưu tập, khai thác tư liệu từ nhiều nguồn khác nhau: tư liệu thành văn, tư liệu điều tra và khảo sát thực địa trên 23 điểm thuộc 21 tỉnh, thành từ Quảng Trị trở ra. |
(Bài viết có sử dụng thông tin, tài liệu từ cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” của GS. Văn Tạo và GS. Furuta Moto)
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.