Theo dõi Báo Hànộimới trên

Nấm mộ Bà Chúa Tiên ở làng Nành

ANHTHU| 30/12/2007 08:35

(HNM) - Làng Nành (tên chữ là Phù Ninh) thuộc xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, là một làng Việt cổ nổi tiếng vùng Kinh Bắc xưa. Trên bãi Cây Đại có nấm mộ tượng trưng Lê Ngọc Hân,  người con gái Thăng Long tài hoa, bạc mệnh.

(HNM) - Làng Nành (tên chữ là Phù Ninh) thuộc xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, là một làng Việt cổ nổi tiếng vùng Kinh Bắc xưa. Trên bãi Cây Đại có nấm mộ tượng trưng Lê Ngọc Hân,người con gái Thăng Long tài hoa, bạc mệnh.

Nấm mộ hiu quạnh

Đọc lại những tư liệu lịch sử cũ và nghiên cứu tộc phả họ Nguyễn Đình ở Ninh Hiệp, chúng ta hiểu về cuộc đời Lê Ngọc Hân. Bà là công chúa thứ 21 của vua Lê Hiển Tông, mẹ tên là Nguyễn Thị Huyền. Ngọc Hân tài sắc hơn người,kiều diễm, đoan trang, được mệnh danh là “Chúa Tiên”. Chính vì thế, khi Nguyễn Huệ đem quân ra “Phù Lê diệt Trịnh” thành công, nhà vua đã chọn Ngọc Hân làm ý trung nhân cho Nguyễn Huệ. Cuộc hôn nhân của công chúa Ngọc Hân với Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã xua đi sự nghi ngờ của triều đình nhà Lê đối với Tây Sơn, nhờ đó mà đất nước yên bình, thoát cảnh nồi da nấu thịt. Và, công chúa Ngọc Hân thực sự đóng vai trò cầu nối cho sự giao hòa Bắc - Nam trong hoàn cảnh chính trị phức tạp lúc bấy giờ.

Sau khi nhà Lê đổ, Nguyễn Huệ lên ngôi vua (năm 1789), hiệu là Quang Trung, Ngọc Hân được phong là Bắc cung Hoàng hậu. Bà là người thông minh, học cao, biết rộng, biết người, đoán xét được mọi việc nên đã giữ được vai trò quan trọng trong sự nghiệp lớn của vua Quang Trung. Nguyễn Huệ yêu quý Ngọc Hân không chỉ vì sắc đẹp, nết na mà còn coi trọng nàng ở tài văn chương nhạc họa và cả những kiến thức về thời cuộc của quốc gia.

Nhưng cuộc tình duyên tuyệt đẹp ấy thật ngắn ngủi. Chỉ mới sáu năm chung sống, Hoàng đế Quang Trung đã đột ngột ra đi để lại Bắc cung Hoàng hậu còn trẻ (tuổi 22) và hai con nhỏ thơ dại. Nỗi đau thương thật vô cùng lớn lao. Bài văn “Ai Tư vãn” khóc chồng của Hoàng hậu thật chân tình, thống thiết, làm rung động lòng người ở mọi thời đại. Ta nhớ lại những vần thơ của trang liệt nữ:

Mà nay sông cạn, bể vùi

Lòng người giáo giở, phận người biệt ly.

Nhưng, Ngọc Hân không chỉ khóc than, mà đã dùng thơ để ca ngợi công đức của chồng với sơn hà xã tắc:

Mà nay áo vải cờ đào,

Giúp dân dựng nước biếtbao công trình

Và nàng lại khóc trong nỗi chua cay, giữ chữ tòng tạm sống để nuôi con, chờ con qua tuổi ấu thơ, chỉ “sống thể xác” mà thôi:

Con trứng nước thương vì đôi chút,

Chữ tình thân chưa thoát được đi

Vậy nên nấn ná mà khi…

Hình thì tuy ở, phách thì đã theo.

Ngọc Hân đưa con ra khỏi cung điện Phú Xuân, sống trong chùa Kim Tiền (Phú Xuân - Huế) cạnh điện Đan Dương để thờ chồng, nuôi con. Bà gượng sống tới ngày 8-11 năm Kỷ Mùi (4-12-1799) thì mất, lúc ấy mới 29 tuổi.

Triều đình Cảnh Thịnh lục đục, suy yếu và sụp đổ. Nhà Nguyễn lên ngôi với sự thù hận sâu sắc hoàng tộc trước. Các con của Ngọc Hân phải đổi sang họ Trần tránh sự truy đuổi của Gia Long Nguyễn ánh, nhưng chẳng tồn tại được bao lâu. Hoàng tử Văn Đức mất ngày 23-12-1801 khi mới 10 tuổi, và công chúa Ngọc Bảo mất ngày 18-5-1802 khi mới 12 tuổi.

Thương con gái, cùng các cháungoại chết yểu nơi xa, năm 1804, bà Nguyễn Thị Huyền khi ấy đang sống ở Phù Ninh thuê người vào Huế, đem hài cốt của ba mẹ con Ngọc Hân về làng. Ngày 28-6-1804, ba bộ hài cốt được đưa về bến ái Mộ (Gia Lâm - Hà Nội) và ngày 11-7-1804 đưa về bản Dinh (tức dinh Thiết Lâm của bà Nguyễn Thị Huyền), sau đó ngày 16-7-1804 được an táng tại bãi Cây Đại hay bãi Đầu Voi ở đầu làng Nành. Sự việc này, bộ sách chính sử của nhà Nguyễn Đại Nam thực lục ghi năm 1842: “Khoảng năm đầu Gia Long, ngụy đô đốc tên là Hài ngầm đem hài cốt mẹ con Ngọc Hân từ Phú Xuân về táng trộm ở địa phận xã Phù Ninh. Thị Huyền ngầm xây mộ, dựng đền, khắc bia giả, đổi lại họ tên để làm mất dấu tích”.

Bà Nguyễn Thị Huyền không có con trai, đã ký hậu 50 mẫu ruộng tốt với làng và chuyển dinh Thiết Lâm làm đền thờ. Năm 1823, bà Huyền mất, thọ 70 tuổi, dinh Thiết Lâm thờ bà và mẹ con Ngọc Hân. Theo tộc phả họ Nguyễn Đình và truyền thuyết địa phương, vào khoảng thời gian từ đời Minh Mạng sang đời Thiệu Trị (1840) có người trong làng đã tố cáo việc thờ cúng này với chính quyền đương nhiệm. Vua Thiệu Trị đã ban sắc, bắt phá hủy đền thờ ở dinh Thiết Lâm. Mộ bamẹ con Lê Ngọc Hân bị quật đào, hài cốt đổ xuống sông Hồng - nơi sau này dân lập đền Ghềnh thờ bà; chánh tổng bịlột da nhồi trấu, tri phủ bị cách chức. Sách Đại Nam thực lục năm 1842 cũng xác nhận: “… việc ấy phát giác, vua sai hủy đền thờ, đào bỏ hài cốt kẻ ngụy”.

Từ năm 1842, dinh Thiết Lâm bị phá, bỏ hoang thành đất công của làng, nhưng dân vẫn gọi là “Vườn Dinh” và dựng lên một “Miếu cô hồn” kín đáo thờ Ngọc Hân. Thời gian trôi, mãi gần trăm năm sau, đến năm 1937 họ Nguyễn Đình đổi đất với làng lấy lại một phần dinh Thiết Lâm và lập lại đền thờ bà Nguyễn Thị Huyền cùng với Ngọc Hân. Và, tại bãi Cây Đại, cùng với việc sửa lại mộ bà Nguyễn Thị Huyền, dân làng cũng đắp nấm mồ tượng trưng của mẹ con Ngọc Hân, tương truyền là chính chỗ mà năm 1842 bị nhà Nguyễn quật phá. Nấm mồ tượng trưng ấy tồn tại đến ngày nay, trải bao oán thù, ngờ vực, và cả thương xót, bảo vệ cẩn trọng.

Lưu Minh Trị (Còn nữa)

- - - - - - - - - - -

Cùng bạn viết

Thăng Long - Hà Nội không phải chỉ có những chuyện trong quá khứ. Trong thời gian tới, đề tài ưu tiên của chúng tôi là thời chúng ta đang sống, những con người, sự kiện, công trình mới... để nói lên sức sống của thành phố hôm nay.

Địa chỉ thư điện tử: thi1000nam@hanoimoi.com.vn

Phông chữ VnArial

BTC

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Nấm mộ Bà Chúa Tiên ở làng Nành

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.