(HNMCT) - Sau hơn 2 tháng đấu tranh khôn khéo nhưng cương quyết trên bàn hội nghị, trong các cuộc gặp riêng giữa hai bên, phía Pháp dù mưu mô song buộc phải thực hiện các điều khoản đã ký với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Genève (Thụy Sĩ). Ngày 8-9-1954, họ đã phải bàn giao 35 điểm tại Hà Nội cho lực lượng quân đội Việt Nam. Và, trong ngày 9-10-1954, rất nhiều sự kiện lớn đã diễn ra...
Lễ hạ cờ trong nước mắt
Sáng 9-10-1954, các đội công tác ngoại thành Hà Nội phối hợp với bộ đội tiến vào tiếp quản Quảng Bá, Cầu Giấy, Ngã Tư Sở, Quỳnh Lôi. Đến trưa, bộ đội và nhân dân đã tiếp quản trụ sở đại lý Hoàn Long (nay là phố Thái Hà).
Trong khi bà con ngoại thành nô nức đón mừng chính quyền cách mạng và bộ đội về giải phóng thì sáng 9-10-1954, quân đội Pháp đã âm thầm làm lễ hạ cờ và thu cờ. Đây là lần thứ hai họ làm lễ hạ cờ. Lần thứ nhất là năm 1874 - khi Pháp ký Hòa ước Giáp Tuất với triều Nguyễn. Lá cờ 3 màu xanh, trắng, đỏ lần đầu xuất hiện trên kỳ đài là ngày 20-11-1873, sau khi thực dân Pháp chiếm thành Hà Nội lần thứ nhất.
Không khí hạ cờ lần này khác xa lần trước. Trên sân vận động Mangin (sân vận động Cột Cờ), lính Pháp và lính lê dương Bắc Phi thuộc Trung đoàn bộ binh Bắc Kỳ, đơn vị cuối cùng rời Hà Nội, xếp hàng bồng súng làm lễ chào cờ lần cuối trong tiếng kèn binh buồn bã. Trời Hà Nội mưa tầm tã. Tướng Masson, Chỉ huy trưởng lực lượng triệt thoái quân đội Pháp bước ra, đứng nghiêm chào lá cờ đang từ từ kéo xuống. Lá cờ ba màu ướt sũng vì nước mưa được 2 hạ sĩ quan mang xuống sân để làm lễ thu cờ. Họ gấp lá cờ làm bốn. Một sĩ quan cao tuổi ngực đeo đầy huân chương công trạng, trong đó có Bắc Đẩu Bội tinh, đứng chờ lệnh. Viên sĩ quan ấy chính là Đại tá Argence, đã ở Bắc Kỳ từ năm 1945. Tướng Masson quay về phía Đại tá Argence ra lệnh cho ông này tiến lên. Sau khi Đại tá Argence vào vị trí, tướng Masson nói: “Đại tá Argence, ông vinh dự giữ lá cờ này, tôi trao nó cho ông, ông xứng đáng là người ra đi cuối cùng”.
Khác với mệnh lệnh danh dự của tướng Masson, những người lính lại có suy nghĩ trái ngược. Trong hồi ức đăng trên “Diễn đàn Điện Biên Phủ” về lễ hạ cờ, một hạ sĩ quan Pháp viết: “Yên lặng bao trùm vừa khớp với mưa gió lẫn nước mưa trên mặt các sĩ quan là những giọt nước mắt lặng lẽ trong sự tuyệt vọng. Tiếng kèn vang lên trong buồn tẻ thống thiết này đánh dấu sự kết thúc của một giai đoạn lịch sử. Lúc đó là 9h. 72 năm hiện diện của nước Pháp mà nay ra đi với lá cờ này".
Sau lễ thu cờ, một số lính Pháp và lê dương Bắc Phi đi chào tạm biệt những người đồng đội đã chết ở nghĩa trang. Số khác về doanh trại thì thầm bàn tán tương lai. 14h, họ được lệnh tập trung. Đúng 16h, họ đặt chân lên cầu Long Biên đi xuống vùng đệm Hải Phòng.
Màu cờ đỏ rực rỡ và lời căn dặn của Bác Hồ
Khi người lính Pháp cuối cùng đặt chân lên cầu Long Biên, các con phố Hà Nội rực màu cờ đỏ sao vàng. Ủy ban Quân chính Hà Nội được thành lập, do Thiếu tướng Vương Thừa Vũ là Chủ tịch và bác sĩ Trần Duy Hưng làm Phó Chủ tịch.
Việc tiếp quản Hà Nội phải làm sao trong tư thế của người chiến thắng nhưng luôn khiêm tốn và kỷ cương. Sáng ngày 9-10-1954, Báo Nhân Dân (số 237) đăng bài viết của Bác với đầu đề: “Giữ gìn trật tự an ninh”. Trong bài viết, Bác căn dặn các đơn vị bộ đội vào thành Hà Nội phải thực hiện nghiêm 10 điều kỷ luật đã công bố trước đó.
Trong 10 điều kỷ luật có 4 điều bộ đội nên tránh: “Chớ tự kiêu, tự mãn. Chớ rượu chè, cờ bạc, trai gái, hút thuốc phiện. Chớ để lộ bí mật. Chớ xa xỉ, tham ô, lãng phí”. Và 6 điều bộ đội phải làm là: “Phải kính trọng nhân dân, giúp đỡ nhân dân, đoàn kết với nhân dân. Phải khiêm tốn, nghiêm chỉnh. Phải giữ gìn tính chất trong sạch, chất phác của người chiến sĩ cách mạng. Phải thực hành cần, kiệm, liêm, chính. Phải làm đúng 10 điều kỷ luật. Phải luôn luôn cảnh giác. Phải thực hiện tự phê bình và phê bình để tiến bộ không ngừng”.
10 điều kỷ luật này thể hiện sự kịp thời, sâu sát thực tế của Bác nhằm giáo dục bộ đội để họ không vi phạm kỷ luật khi về tiếp quản. Trong bài báo, Người còn viết: “Ngày nay, chúng ta về thành thị, các chú cũng phải làm kiểu mẫu đúng đắn, để tranh lấy thắng lợi trong hòa bình. Chỉ có làm được như vậy nhân dân Hà Nội mới quý mến, tôn trọng và nhiệm vụ mới hoàn thành”.
67 năm đã qua, nhưng cứ đến mùa thu tháng 10, nhiều thế hệ người Hà Nội vẫn trào dâng cảm xúc về ngày thành phố được giải phóng, trở lại vai trò Thủ đô của đất nước Việt Nam độc lập, tự do.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.