Theo dõi Báo Hànộimới trên

Một Hà Nội ngoài đê sông Hồng (tiếp theo và hết)

Nguyễn Ngọc Tiến| 12/10/2014 05:46

(HNM) - Tiếp tục hàng năm đều có người trong phố ra làm dân Bãi Cát đó là dân tỉnh lẻ về Hà Nội sinh sống với các nghề thủ công, buôn bán lặt vặt nhưng trắng tay không có chỗ ở cố định ra đây tạm trú xoay xở kiếm nghề khác.



Thực tế dân Bãi Cát quần tụ không theo tục lệ sinh hoạt của làng truyền thống Bắc bộ, không có đình chùa riêng chỉ có vài miếu tư nhân nặng về đồng bóng. An Dương có miếu Cô Trôi, Bách Linh, Phúc Xá có đền Lánh. Dân gốc Cơ Xá mất dần chỉ còn lại rất ít sống ở Bãi Giữa và Cơ Xá nam.

Phía dưới cầu Long Biên là Bãi Giữa với quang cảnh yên bình khiến con người có cảm giác dễ chịu và bỏ lại sau lưng sự ồn ào phố thị.


Cuộc sống của phu xe kéo khốn khó vì họ bị chèn ép, nhiều người bị dồn đến bước đường. Trước tình cảnh đáng thương và đáng lên án chính quyền, nhà báo Tam Lang (tên thật là Vũ Đình Chí, 1900-1986) quyết định làm phóng sự về họ. Và phóng sự “Tôi kéo xe” ra đời được đăng dài kỳ trên “Hà Thành ngọ báo” năm 1932. Để có thiên phóng sự này, Tam Lang đã đóng vai một người kéo xe, ra ngoài bãi sống chung với phu nên phóng sự phản ánh chân thật cuộc sống của họ. Bài báo có đoạn: “Dân Bãi Cát có nhiều tầng lớp, những tên anh chị sống bám vào dân nghèo, chứa cờ bạc, hành động côn đồ, cho vay nặng lãi. Còn đại đa số là tầng lớp dưới đáy xã hội làm ăn lam lũ với đủ các nghề lao động nặng nhọc như: Xe tay, xe bò, khuân vác, vớt củi, bán quà rong… Kiếm ăn chật vật vất vả lại hay cờ bạc, thuốc xái, kiếm được đồng nào qua tay hết đồng ấy, sống không có ngày mai”. Hằng năm, nước to trôi cả nhà và nếu có ai chết thì anh em hay hàng xóm chôn vụng trên bãi cát, nước lên san phẳng cả mồ mả. Họ đẻ con không có giấy khai sinh, người lớn tên tuổi không có giấy tờ chứng minh. Bệnh tật không có nơi chữa, những năm phát sinh dịch tả, đậu mùa dân chết hàng loạt. Thỉnh thoảng cảnh sát bao vây bắt thuốc phiện lậu, bắt sòng bạc, khiến dân ở đây sống nơm nớp trong lo sợ. Trong báo cáo của Thống sứ Bắc Kỳ năm 1912 gửi Toàn quyền Đông Dương có đoạn: “Dân Bãi Cát không khai tử vì sợ khai báo phiền hà tốn kém, không giấy tờ lý lịch nên trẻ con không được đi học, người lớn không thể xin được việc làm ở các xí nghiệp”. Năm 1936, chính quyền thành phố quyết định di dời nghĩa trang chôn cất người chết vô thừa nhận ở bãi Nghĩa Dũng, vợ chồng nhà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô đã cúng 100 tiểu đại để đựng hài cốt. Cuộc sống ngoài bãi còn được phản ánh qua câu ca dao “Bồi Đồn Thủy, đĩ Bình Lao”(chị em ngoài bãi đói kém đã đến khu vực Bình Lao làm đĩ và Tây trong Đồn Thủy thường trốn ra đây tìm).

Bãi còn là nơi tá túc của những người hát xẩm và tại An Dương có tới mấy chục gánh túm lại một chỗ dân khu vực này gọi là Trại Xẩm. Ngày đi hát, tối về lấy nước sông Hồng đỏ ngầu nấu ăn rồi chui vào trong lều ngủ vạ vật, sớm hôm sau lại kéo nhau ra bến ô tô, bến xe điện. Cuộc sống lam lũ nhưng năm 1954, họ sẵn sàng tham gia vào đội văn nghệ tuyên truyền kêu gọi bà con không nghe theo lời xúi giục di cư vào Nam. Họ đã tự nghĩ ra lời đặt cho các bài xẩm rồi cùng nhà thơ Thanh Tịnh về hát ở Nam Định, Thái Bình.

Một sự kiện diễn ra tại sân vận động Phúc Tân (sau 1954 gọi là sân vận động Long Biên, nay sân này không còn) cách nay gần 70 năm đó là hàng nghìn người dân An Dương, Nghĩa Dũng, Phúc Xá đã nồng nhiệt chào đón Bác Hồ lúc Người ra đây vận động bầu cử khi được giới thiệu ra ứng cử Quốc hội khóa I năm 1946. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Bãi Cát và Bãi Giữa đã hình thành đội tự vệ bí mật. Sau 60 ngày đêm chiến đấu chống quân Pháp, đầu năm 1947, Trung đoàn Thủ đô được lệnh rút khỏi Hà Nội, đơn vị tự vệ ở Bãi Cát đã bí mật đưa các chiến sĩ qua sông Hồng an toàn.

Và từ năm 1954 đến nay

Sau khi tiếp quản Thủ đô, dù còn nhiều việc quan trọng hơn nhưng chính quyền thành phố đã làm nhiều việc khiến diện mạo An Dương, Nghĩa Dũng, Phúc Xá và Phúc Tân thay đổi. Chỉ trong vài năm, hàng loạt các khu tập thể một tầng, lợp ngói, sử dụng chung công trình vệ sinh, nước sạch được xây dựng để đáp ứng nhu cầu cấp thiết chỗ ở cho bộ đội, cán bộ từ chiến khu về. Có thể kể ra là khu tập thể K95 dành cho quân đội, khu tập thể An Dương. Cùng với nhà tập thể, một số xí nghiệp chế biến gỗ cũng mọc lên, các xí nghiệp khai thác, thu mua lâm sản từ mạn ngược đưa về đã ra đời thu hút lao động là người sống ngoài bãi. Nhiều người trước năm 1954 vất vưởng thì nay đã trở thành công nhân nhà nước có gạo cung cấp, có lương, đau ốm được vào bệnh viện chữa trị không mất tiền, điều trước đó họ không dám mơ. Xen giữa những gian nhà lá ở khu vực Phúc Xá là Trường Trung cấp Xây dựng, Trung cấp Tài chính khang trang. Chính quyền mới cũng tập hợp những người dân lao động tự do vào các hợp tác xã vận chuyển bằng xe bò, xích lô, ba gác nên cuộc sống của họ khá ổn định. Các gia đình trồng dâu, ngô hay khoai lang được đưa vào hợp tác xã nông nghiệp nên các bờ dâu vẫn xanh ngắt bãi đê sông Hồng. Nhưng thay đổi lớn nhất đối với dân nghèo ngoài bãi là trước kia con cái sinh ra không có giấy khai sinh, bản thân họ cũng không có giấy tờ gì thì tháng 8-1958, thực hiện chủ trương của Ủy ban Hành chính thành phố, Công an quận Hoàn Kiếm đã kê khai làm hộ tịch và làm chứng minh thư cho người từ 18 tuổi trở lên. Từ dân lao động tứ chiếng sống đủ các nghề không ai quan tâm thì nay họ trở thành “công dân Hà Nội”.

Trong những năm tháng Mỹ ném bom đánh phá miền Bắc và Hà Nội, cầu Long Biên trở thành trọng điểm đánh phá và nhiều lần bị ném bom sập nhịp nhưng trong đêm 21-12-1972, máy bay B52 ném bom vào khu tập thể An Dương làm chết 135 người dân vô tội.

Vì sống ngoài đê nên vào mùa mưa lũ, hàng vạn dân phấp phỏng lo âu. Trận lũ năm 1968, 1969 và đặc biệt là trận lũ lớn nhất thế kỷ XX xảy ra năm 1971 khiến dân bãi phải sơ tán khẩn cấp vào trong đê, các cửa đê đều phải hàn khẩu, nước sông mấp mé mặt đê Yên Phụ. Nhiều gia đình không có họ hàng, người thân trong phố phải sống tạm hàng chục ngày trên vỉa hè phố Yên Phụ. Và những năm bao cấp, hạ tầng ngoài đê chưa được quan tâm đầu tư nên đường sá vẫn còn lầy lội, nước sạch thiếu trầm trọng nhưng từ khi thực hiện đổi mới đường sá, điện nước cho dân ngoài bãi dần được cải thiện. Năm 1997, tôi gặp lại anh bạn cùng đơn vị khi anh đang đạp xích lô. Anh cho tôi địa chỉ ở 62 đường Bạch Đằng và hẹn ra chơi vì từ ngày rời chiến trường K anh em chưa gặp lại. Nhưng đi tìm thì có tới mấy chục số 62. Bây giờ không còn tình trạng như vậy. Đường phố, hẻm rồi ngách không thảm nhựa thì rải bê tông rất sạch sẽ. Phố bãi sông thực sự lột xác lần thứ hai vào những năm đầu thế kỷ XXI, từ khu vực Tứ Liên kéo đến cầu Vĩnh Tuy hầu hết là nhà bê tông kiên cố. Nếu ai ra lần đầu chắc không nghĩ đây lại là ngoài đê. Và ngoài bãi đâu chỉ có dân lao động, nếu ai đi học phổ thông chắc còn nhớ những câu thơ trong sách giáo khoa cấp I:

Trưa hè trời nắng chang chang
Mẹ em đi cấy phơi lưng cả ngày
Ước gì em hóa thành mây
Em che cho mẹ suốt ngày nắng râm.


Đó là thơ của cố nhà thơ Thanh Hào, người gốc Cơ Xá, ông sinh ra và lớn lên ở Bãi Giữa. Nguyễn Khải, nhà văn nổi tiếng với các tác phẩm “Chủ tịch huyện”, “Tầm nhìn xa” và sau này là “Gặp gỡ cuối năm” đã từng sống ở khu tập thể K95 trong rất nhiều năm. Ngoài các nhà thơ, nhà văn còn có các nghệ sĩ cũng chọn bãi sông Hồng làm nơi sống. Bờ sông còn có cả anh hùng, đó là Trung úy Nguyễn Tài Hải, Phó Công an phường Chương Dương đã hy sinh vì nhiệm vụ năm 1981.

60 năm tính từ Thủ đô giải phóng, cuộc sống ngoài bãi đã có nhiều thay đổi và mong mỏi lớn nhất hiện nay của nhiều người dân là giá như bỏ được con đê…

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Một Hà Nội ngoài đê sông Hồng (tiếp theo và hết)

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.