(HNMĐT) -Xuân Đỗ tên Nôm là làng Đậu, là một làng cổ nằm ven sông Hồng, đoạn có vị trí xung yếu đối với vùng đất Tả ngạn dòng sông. Vì vậy, con người ở đây sớm phải chung sức đắp đê ngăn nước lụt, tạo nên những cánh bãi màu mỡ, quanh năm xanh ngút ngàn của đậu đỗ, dâu, lúa lốc. Tên “làng Đậu” và “Xuân Đỗ” phải chăng xuất phát từ việc cấy trồng các loại đậu đỗ trên vùng đất bãi này ?
![]()
(HNMĐT) -Xuân Đỗ tên Nôm là làng Đậu, là một làng cổ nằm ven sông Hồng, đoạn có vị trí xung yếu đối với vùng đất Tả ngạn dòng sông. Vì vậy, con người ở đây sớm phải chung sức đắp đê ngăn nước lụt, tạo nên những cánh bãi màu mỡ, quanh năm xanh ngút ngàn của đậu đỗ, dâu, lúa lốc. Tên “làng Đậu” và “Xuân Đỗ” phải chăng xuất phát từ việc cấy trồng các loại đậu đỗ trên vùng đất bãi này ?
Xuân Đỗ lúc đầu là một khối thống nhất, về sau hình thành hai khối dân cư, gọi là Đậu Thượng và Đậu Hạ với đình, chùa riêng. Hiện nay chỉ còn đình và chùa của Xuân Đỗ Hạ. Bia có niên hiệu Vĩnh Tộ (1619 - 1628) cho biết đình được xây dựng vào thời điểm này. Chùa Xuân Đỗ Hạ có tên là Sùng Phúc tự. Cả đình và chùa đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa năm 1994.
Đình thờ ba vị thần. Vị thần đầu tiên là Đức bản thổ (thần đất). Đến thời Hai Bà Trưng khởi nghĩa, một vị tướng của Hai Bà là Khỏa Tiêu Sơn (hay Ba Sơn) hay Tiên Ngô Lộ tướng quân đến đóng quân ở khu Hoa Động làng Xuân Đỗ, vào miếu cầu xin Đức bản thổ cho dẹp được Tô Định, liền thấy một nữ thần hiện lên xưng là Lâu Ly Vy công chúa, là con gái của Lạc Long Quân, báo sẽ dẹp được giặc. Vì thế, về sau, làng Xuân Đỗ thờ cả Khỏa Tiêu Sơn (dân làng quen gọi là Đức Thánh Ông) và Lâu Ly Vy công chúa (Đức Thánh Bà). Việc thờ các vị thần này minh chứng thêm cho tính cổ xưa của làng Xuân Đỗ. Các lễ thức chính của làng diễn ra vào các ngày 10 tháng Hai (sinh nhật Đức Thánh Ông), 15 tháng Tám (Đức Thánh Bà báo mộng) và 15 tháng Mười (Đức Thánh Ông hiển thánh).
Đầu thế kỷ XIX, Xuân Đỗ là một xã thuộc tổng Cự Linh, huyện Gia Lâm, phủ Thận An, trấn Kinh Bắc (từ năm 1822 đổi thành trấn Bắc Ninh, từ tháng 11 - 1831 đổi thành tỉnh Bắc Ninh). Đầu thế kỷ XX, Xuân Đỗ là một làng trung bình, cả hai thôn Thượng và Hạ có 1031 dân (năm 1928).
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Xuân Đỗ lập chính quyền nhân dân lâm thời riêng, sau đó Xuân Đỗ nằm trong một xã lớn mang tên Cự Linh thuộc huyện Gia Lâm, tỉnh Hưng Yên (từ năm 1949 lại cắt về tỉnh Bắc Ninh). Sau Cải cách ruộng đất (giữa năm 1956), xã Cự Linh được chia thành hai xã : Cự Khối và Thạch Bàn. Xã Cự Khối gồm hai thôn (làng cũ) là Xuân Đỗ và Thổ Khối. Tháng 5 - 1961, xã Cự Khối cùng các xã khác trong huyện Gia Lâm được chuyển về thành phố Hà Nội. Tháng 11- 2003, xã Cự Khối được chuyển thành phường, thuộc quận Long Biên mới được thành lập.
Xuân Đỗ nằm ở bờ Bắc sông Hồng, đối ngạn với thành Thăng Long nên chứa đựng nhiều dấu tích lịch sử được sử cũ ghi lại :
- Tháng Bảy năm Mậu Dần niên hiệu Quang Thiệu (tháng 8 - 1518), Vua Lê Chiêu Tông phải chạy sang dinh Bồ Đề rồi chuyển về Xuân Đỗ lập dinh. Lúc bấy giờ, Mạc Đăng Dung cho rằng Vua ở Xuân Đỗ không lợi nên xin vua thiên về Bảo Châu (bãi sông Hồng ở phường Nhật Tân hiện nay). Bọn Thượng thư kiêm Đô Ngự sử là Đỗ Nhạc và Phó Đô Ngự sử khuyên vua không nên dời đến đó, liền bị Mạc Đăng Dung giết chết tại bãi ruộng dâu ngoài cửa Bắc hành dinh Xuân Đỗ. Vua Chiêu Tông sau đó phải thiên về Bảo Châu nhưng chỉ tháng sau, lại phải về Xuân Đỗ.
- Đầu tháng Ba năm Quý Mùi (tháng 4 - 1523), vì năm trước bị loạn lạc, kỳ thi Hương không được tổ chức nên đến đây, Vua Lê Cung Hoàng đóng ở hành dinh Bồ Đề, bèn lệnh cho các quan sức cho học trò các xứ Sơn Nam, Sơn Tây, Hải Dương, Kinh Bắc cùng đến bãi Xuân Đỗ để thi.
PGS, TS. Bùi Xuân Đính