(HNMO)- Làng Thanh Am có tên Nôm là làng Đuống, có đường Thiên lý từ Kinh đô Thăng Long lên phía Bắc chạy qua (tức Quốc lộ 1 A Hà Nội - Lạng Sơn hiện nay), rất thuận tiện cho giao lưu, buôn bán.
![]()
(HNMO)- Làng Thanh Am có tên Nôm là làng Đuống, có đường Thiên lý từ Kinh đô Thăng Long lên phía Bắc chạy qua (tức Quốc lộ 1 A Hà Nội - Lạng Sơn hiện nay), rất thuận tiện cho giao lưu, buôn bán.
Thanh Am là một làng cổ ở bờ Nam sông Thiên Đức cũ (tức sông Đuống). Tuy nhiên, lại có ý kiến cho rằng, làng được hình thành gắn với công lao của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (bản khai thần tích thần sắc lưu tại Viện Thông tin Khoa học xã hội chép ông tên thật là Nguyễn Văn Đạt), sinh năm Tân Hợi (năm 1491), mất năm Ất Dậu - 1585 (bản khai thần tích chép ông mất năm Kỷ Dậu - 1549). Ông quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng; đỗ Trạng nguyên khoa Ất Mùi niên hiệu Đại Chính đời Mạc Đăng Doanh (năm 1535), làm quan đến chức Thượng thư, Thái phó, tước Trình Quốc công; là nhà chính trị, nhà văn hóa lớn của Việt Nam thế kỷ XVI. Tục truyền, trong thời gian ở Kinh đô Thăng Long, Nguyễn Bỉnh Khiêm thường về thăm thú các làng quê bên bờ sông Thiên Đức. Thấy đất đai màu mỡ, phong cảnh hữu tình, ông đưa nhiều người là con cháu lên đây lập nghiệp ở bờ Nam sông Đuống, mở mang làng xóm, thành một vệt 18 (?) làng, đặt theo tên quê gốc ở là Am, gọi chung là Hoa Am. Sau 8 làm quan cho nhà Mạc, ông về lập dinh thự tại Hoa Am để nghỉ ngơi và sáng tác. Vì thế, dân vùng này tôn Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm làm thành hoàng.
Đầu thế kỷ XIX, Hoa Am là một xã thuộc tổng thuộc tổng Đặng Xá, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (từ năm Minh Mạng thứ 12 - 1831 là tỉnh Bắc Ninh). Khi Thiệu Trị lên ngôi (năm Tân Sửu, 1841), vì kỵ húy bà Hồ Thị Hoa (mẹ Thiệu Trị) nên làng Hoa Am phải đổi thành Thanh Am. Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Thanh Am là làng có dân số trung bình (năm 1928 có 838 nhân khẩu).
Trong kháng chiến chống Pháp, Thanh Am nằm trong một xã lớn mang tên Toàn Thắng thuộc huyện Gia Lâm. Sau cải cách ruộng đất, xã Toàn Thắng chia thành nhiều xã, trong đó có xã Thượng Thanh (thuộc quận VIII ngoại thành Hà Nội), gồm các làng : Thanh Am, Đức Giang, Gia Quất và Thượng Cát. Năm 1961, xã Thượng Thanh được cắt về huyện Gia Lâm. Từ tháng 11 - 2004, xã Thượng Thanh được chuyển thành phường, thuộc quận Long Biên mới được thành lập. Phần lớn đất đai và dân cư làng Thanh Am thuộc tổ 28 của phường này.
Làng Thanh Am hiện còn cụm di tích đình chùa đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa (năm 1990). Đình ở phía trước, gồm đại đình (có 5 gian, 2 dĩ), Phương đình kiểu hai tầng tám mái và hậu cung (ba gian). Ngoài thờ Danh nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm, đình còn thờ Đào Kỳ và Phương Dung. Đào Kỳ sinh ra ở vùng Cối Giang (chưa rõ là làng nào trong tổng Hội Phụ cũ, nay thộc hai xã Mai Lâm và Đông Hội, huyện Đông Anh). Đào Kỳ chăm học, chăm làm, sớm bộc lộ chí lớn. Năm 15 tuổi mồ côi cả cha mẹ. Ông tự lập thân. Còn Phương Dung có bố là người trang Vĩnh Tế, huyện Lang Tài (tỉnh Bắc Ninh), mẹ người vùng Cối Giang. Khi nhà Hán sai Tô Định sang cai trị nước ta, đã giết hại Nguyễn Trát (thân phụ Phương Dung) sau khi bị ông từ chối ra cộng tác. Phương Dung cùng mẹ về lánh nạn ở Cối Giang, gặp Đào Kỳ. Vì mến nhau vì đức, trọng nhau vì tài, Đào Kỳ và Phương Dung kết duyên và cùng chung sức mưu toan trả thù nhà, đền nợ nước. Khi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, Đào Kỳ, Phương Dung đã chiêu tập được hơn 100 dũng sĩ lên Hát Môn yết kiến và gia nhập đội quân của Hai Bà đánh đuổi Tô Định, giải phóng đất nước.
Ba năm sau, nhà Hán sai Mã Viện sang chiếm lại nước ta. Đào Kỳ, Phương Dung sau một thời gian chống giặc trên phòng tuyến Đông Ngàn - Bắc sông Đuống đã lên Lạng Sơn chiến đấu, sau lại về Cấm Khê tiếp viện cho Hai Bà. Đào Kỳ bị thương, phá vòng vây về đến Cổ Loa thi ngã xuống. Phương Dung sau đó cũng phá vòng vây địch, về đến Cổ Loa nghe tin chồng hy sinh rút gươm tự vẫn. Nhân dân trong vùng thương tiếc thờ ông bà làm thành hoàng. Hội làng hàng năm được tổ chức từ mồng 9 đến 11 tháng Ba.
Thanh Am có ngôi chùa Đông Linh tự, cách đình 500 mét về phía Nam. Căn cứ vào bia và chuông còn lưu trong chùa thì chùa được xây từ thời Lê Trung Hưng, trở thành một danh thắng nổi tiến ở bờ Nam sông Thiên Đức. Năm Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống (1787), chùa bị tàn phá nặng nề. Sau đó, chùa được tu bổ lại và đúc lại chuông. Trên quả chuông lớn “Tại chú hồng chung” đúc năm đầu niên hiệu Cảnh Trị (Quý Sửu, 1793) có ghi tên của nhiều tướng lĩnh Tây Sơn góp sức vào việc này, như Đô đốc Đặng Lộc hầu, Chưởng cơ Trí Lược hầu, Chưởng cơ Xuyến Vũ hầu, Thiếu khanh Nguyễn Vũ Tuấn v. v. Đến năm Tự Đức thứ 12 (Kỷ Mùi, 1859), dân làng đúc thêm quả chuông mới. Hiện cả hai quả chuông còn lưu trong chùa.
Làng Thanh Am xưa có tục kết nghĩa với làng Lê Xá, tổng Hội Phụ, huyện Đông Ngàn (nay thuộc xã Mai Lâm, huyện Đông Anh).
PGS, TS. Bùi Xuân Đính