Chính phủ vừa công bố danh sách những cơ sở sử dụng năng lượng (NL) nhiều nhất cả nước cho thấy việc sử dụng NL của nhiều doanh nghiệp (DN) đã lãng phí đến mức đáng báo động. Trong bản danh sách này có không ít DN trong ngành điện, trong khi họ vẫn luôn
Việt Nam là một trong những nền kinh tế sử dụng NL kém hiệu quả và điều này đã được các chuyên gia cảnh báo. Mặc dù ngành chức năng không ít lần đề cập đến vấn đề này, nhưng chỉ đưa ra được những con số ước đoán về tiềm năng tiết kiệm ở một số ngành, một số lĩnh vực, mà không chỉ ra được những DN đang sử dụng lãng phí nhất. Vì vậy, việc cải thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng NL cũng chỉ dừng lại ở tuyên truyền và kêu gọi ý thức tiết kiệm của các DN. Đầu tháng 8-2011, Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải đã ký ban hành danh sách cơ sở sử dụng NL trọng điểm năm 2011 với hơn 1.000 DN (những DN có mức tiêu thụ NL lớn nhất cả nước). Danh sách này gồm tất cả các cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, vận tải tiêu thụ lượng NL tương đương từ 1.000 tấn dầu quy đổi (TOE)/năm trở lên và các tòa nhà tiêu thụ tương đương từ 500 TOE trở lên. Từ danh sách này có thể xác định những DN đang lãng phí NL.
Theo nhiều chuyên gia, danh sách cơ sở sử dụng NL trọng điểm năm 2011 đã phần nào cho thấy bức tranh toàn cảnh đáng lo ngại về tình trạng lãng phí NL của nhiều DN. Chẳng hạn, với một số nhà máy nhiệt điện, sử dụng than để phát điện, thì ở nhà máy này công suất 100 MW, lượng than tiêu thụ tương đương với 282.796 TOE; trong khi ở nhà máy khác với công suất 300 MW, chỉ cần lượng nhiên liệu tương đương 445.135 TOE, hay có nhà máy chỉ sử dụng 315.580 TOE cho công suất 600 MW. Ở ngành xi măng và các ngành sản xuất khác cũng vậy. Với năng lực sản xuất 1,4 triệu tấn mỗi năm, có nhà máy tiêu tốn lượng NL tương đương gần 100.000 TOE, trong khi đó ở một nhà máy khác gần khu vực có công suất 2,1 triệu tấn, chỉ cần sử dụng gần 90.000 TOE... Có lẽ việc chênh lệch về mức tiêu thụ NL ở các DN như nói trên là do khác biệt về trình độ công nghệ, cũng như năng lực quản lý, điều hành. Tình trạng này không chỉ xảy ra giữa những cơ sở cũ, mà ngay những nhà máy mới được xây dựng cũng có sự khác biệt rất lớn, rõ nhất là ở các nhà máy nhiệt điện chạy than. Điều này cho thấy, việc quản lý nhập khẩu máy móc thiết bị và công nghệ đang tồn tại lỗ hổng lớn, cần sớm có biện pháp khắc phục.
Việc ban hành danh sách cơ sở sử dụng NL trọng điểm là một trong những bước đi nhằm triển khai Luật Sử dụng NL tiết kiệm và hiệu quả (NLTK&HQ). Đặc biệt, Chính phủ cũng yêu cầu các cơ sở có tên trong danh sách có trách nhiệm thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ mà luật đã quy định. Theo đó, các đơn vị này phải công bố mục tiêu, chính sách về sử dụng NLTK&HQ tại cơ sở; xây dựng kế hoạch hằng năm và 5 năm về sử dụng NL tiết kiệm; thực hiện các biện pháp sử dụng NLTK&HQ theo mục tiêu, chính sách và kế hoạch đã lập; có mạng lưới và người quản lý NL. Ngoài ra, còn phải thực hiện chế độ kiểm toán NL, từ đó đề xuất và lựa chọn thực hiện các giải pháp quản lý nhằm sử dụng NLTK&HQ. Tuy nhiên, để các DN thực hiện có hiệu quả, không đối phó, ngành chức năng cần phải làm gì trong khi cả luật, nghị định hướng dẫn đều không có biện pháp mạnh để xử lý các trường hợp vi phạm, mà chủ yếu là đưa ra các chính sách ưu đãi, hỗ trợ để khuyến khích DN thực hiện? Theo các chuyên gia, giải pháp trước mắt có thể thực hiện là tăng giá bán điện, than, xăng dầu với những đơn vị cố tình chây ỳ, không chịu tuân thủ theo đúng quy định đã ban hành. Sau đó có thể xét thêm các giải pháp về thuế... để những DN sử dụng lãng phí NL không thể tồn tại trên thương trường. Dài hơn, Nhà nước nên có lộ trình cụ thể để đóng cửa những cơ sở sản xuất và dịch vụ có suất tiêu hao NL quá lớn. Đặc biệt, các ngành chức năng cần sớm xây dựng hệ thống chỉ tiêu về suất tiêu hao NL cho các sản phẩm công nghiệp và các ngành dịch vụ. Có như vậy, DN mới quan tâm sử dụng, tiết kiệm có hiệu quả NL.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.