Qua Ngã tư Sở khoảng hơn 1 cây số, rẽ về tay trái vào đường “Khương Đình” dọc sông Tô Lịch, qua các làng Thượng - Hạ Đình, khu tập thể Kim Giang là 3 làng cùng mang tên Nôm “Lủ” là Lủ Cầu (Kim Giang), Lủ Trung (Kim Lũ) và Lủ Văn (Kim Văn) thuộc xã Đại Kim, huyện Thanh Trì (nay là phường Đại Kim, quận Hoàng Mai), xưa thuộc tổng Khương Đình, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng...
Ảnh: Phương Thảo
Kim Lũ (nghĩa là sợi dây vàng, tức sự giàu sang) chỉ sự ước vọng của người làng Lủ và trên thực tế, kinh tế của làng cũng khá phát đạt. Ngoài nông nghiệp còn buôn bán và các nghề làm bỏng, làm kẹo, làm cốm, làm chè lam, làm bánh đa khoai, làm quạt.
Lủ là vùng đất còn in đậm các dấu tích lịch sử. Cổng Tường quang làng Lủ Trung tương truyền là nơi sinh ra Lê Duy Ninh, sau được Nguyễn Kim và các tôn thất nhà Lê đưa lên ngôi vua , tức Lê Trang Tông mà dân gian thường gọi là Chúa Chổm. Tại làng còn vết tích của điện Kim Long (hay Đền vua Lê) tương truyền do Vua Lê Thần Tông dựng để thờ cụ nội là Lê Anh Tông (do Anh Tông từng có thời kỳ lập hành tại ở đây, sau Anh Tông bị Trịnh Tùng giết hại năm 1572). Quanh điệnKim Long vẫn còn một số di tích như: Ao chầu, Vườn pha (viên phủ), Mả quan. Hàng năm cứ đến ngày 22 tháng giêng, các bô lão ba làng Lủ cùng tổ chức làm giỗ, kinh phí lấy từ hoa mầu ruộng giỗ (do Vua Lê cấp).
Kim Lũ cũng là vùng đất phát đạt về học hành. Làng Lủ Văn có Nguyễn Nhân Chínhđỗ Tiến sĩ năm 1634). Làng Lủ Trung có Tiến sĩ Hồng Hạo (đỗ năm 1710)và 4 Tiến sĩ cùng thuộc một họ là Nguyễn Công Thái (1715), Nguyễn Văn Siêu (Phó bảng, 1838), Nguyễn Tuyên (hay Nguyễn Trọng Hợp, 1865) và Nguyễn Sĩ Cốc (1910). Họ Hồng từ khi Tự Đức lên ngôi đổi thành họ Cung,Nguyễn Công Thái (1684 - 1758) làm quan đến Tham tụng (Tể tướng) kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám. Năm 1728), ông được điều lên Tuyên Quang nhận đất và lập mốc giới tại khu vực sông Đồ Chú mà nhà Thanh trả lại cho nước ta. Ông cùng các quan xông pha lăn lộn những nơi hiểm trở, nhận đúng chỗ sông Đồ Chú mà thổ ty phủ Khai Hoá (nhà Thanh) chỉ sai để ăn chặn, rồi dựng bia ở nơi giáp giới.. Ông là một trong 5 vị “Phụng thị ngũ lão” (về hưu rồi lại được ra nắm triều chính) của triều Lê - Trịnh.
Nguyễn Văn Siêu (1799 - 1872) là nhà văn hoá lớn, có công trong việc xây dựng, tu bổ khu đền Ngọc Sơn (đài nghiên, tháp bút, cầu Thê Húc); có nhiều tác phẩm có giá trị như Phương Đình thi tập, Phương Đình dư địa chí, Địa dư toàn biên v. v... Năm 1849, được cử làm Phó sứ sang nhà Thanh. Sau ông cáo quan về nhà dạy học, dựng nhà hình vuông, gọi là Phương đình. Học trò theo học rất đông, có nhiều người thành đạt.
Nguyễn Trọng Hợp(1834 - 1902) làm quan đến Thượng thư bộ Lại, Đại thần Cơ mật viện, Văn minh Điện đại học sĩ, 3 lần đảm nhận việc ngoại giao, thương thuyết với thực dân Pháp. Ông còn là nhà văn, nhà thơ, nhà sử học, để lại các tác phẩm: Kim Giang văn tập, Kim giang thi tập, Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập …
Làng Kim Lũ còn có nhiều người đỗ trung khoa (họ Hồng có 8 người, họ Nguyễn có 10 người, trong số họ có cha, con và em của Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hợp)
Các làng Lủ đều có đình, đền riêng, song chung chùa, bệ thờ Thần nông và đặc biệt là văn chỉ. Hiện còn một tấm bia Văn chỉ lập vào ngày lành tháng 7 năm Đồng Khánh thứ 2 (1887) đề cao đạo học của người làng Lủ. Làng Lủ Trung còn có Nhà thờ của các danh nhân : Nguyễn Công Thái,Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Trọng Hợp, Nhà thờ họ Hồng, những dấu tích của một làng quê cổ kính và văn vật.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.