Những năm 50-60, mảnh đất Vĩnh Linh phải oằn mình dưới làn bom đạn và chất độc hoá học của Mỹ. Song người dân vùng đất lửa không chịu khuất phục, họ đồng lòng vượt khó, xẻ đất xây dựng một làng quê ngầm để sinh sống và chiến đấu.
Với âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, đế quốc Mỹ đã tìm mọi cách phá hoại Hiệp định Geneva. Cùng với việc đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân ở miền Nam, Mỹ khiêu khích, gây chiến với lực lượng bảo vệ giới tuyến ở Vĩnh Linh, nơi đây trở thành tuyến lửa ác liệt nhất miền Bắc.
Đặc biệt đến năm 1965, với việc dựng lên sự kiện Vịnh Bắc Bộ, Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại ra miền Bắc bằng không lực, trong đó Vĩnh Linh là một mục tiêu đánh phá hàng đầu. Bởi đây không chỉ là tiền đồn miền Bắc xã hội chủ nghĩa mà còn là địa bàn trực tiếp chi viện sức người, sức của cho miền Nam.
Thật khó có thể hình dung một mảnh đất nhỏ bé chưa đầy 820 km2 như Vĩnh Linh lại phải gánh chịu một khối lượng bom đạn khổng lồ từ nhiều hướng dội vào. Suốt những năm 1965-1972, hầu như không ngày nào Vĩnh Linh không ngớt tiếng đạn nổ bom rền. Trong 8 năm, hơn nửa triệu tấn bom đạn các loại đã ném xuống nơi đây. Tính bình quân mỗi người dân Vĩnh Linh phải gánh chịu 7 tấn bom đạn. Mỹ còn cho máy bay rải chất độc hoá học, cướp đi sinh mạng của hơn 12 nghìn người dân. Cây cỏ khô héo, cả vùng trở nên khô trụi.
Song quân và dân Vĩnh Linh đã không quản ngại khó, giữ vững địa bàn và chi viện cho chiến trường bắc Quảng Trị. Với khẩu hiệu một tấc không đi, một ly không rời, nhân dân đã bám đất, bám làng. Một hệ thống hầm, hào công sự được hình thành. Đó là sự ra đời của loại hầm chữ A, hầm lá và hệ thống giao thông hào phân bố khắp vùng đất đỏ Vĩnh Linh. Hệ thống giao thông hào nối từng nhà từng thôn, liên thôn, liên xã chằng chịt.
Công việc đào địa đạo diễn ra trong mưa bom bão đạn. Chỉ cần phát hiện ra dấu vết đất mới là địch cho thả bom xuống ngay địa điểm đó. Đã có nhiều nơi trong lúc đào bị bom đánh trúng làm thiệt hại lớn cho nhân dân. Tất cả những dụng cụ từ thô sơ đến hiện đại đều được huy động, tổng lực cho việc "khai phá lòng đất". Hàng trăm ngôi nhà gỗ được dỡ xuống để kè chống vòm hầm. Mỗi địa đạo được bắt đầu bằng bản vẽ trên giấy và cứ 5 người 1 tổ bắt đầu khai phá lòng đất. Họ kiên nhẫn đào thành đường hầm tiến về phía nhau. Đôi khi đào quá độ dài cần thiết mà không giáp mặt nhau. Họ dùng cuốc xẻng đập thình thịch vào bờ đất, lắng nghe tiếng dội âm u vẳng đến để tìm nhau.
Đến giữa năm 1966, toàn khu vực Vĩnh Linh đã đào được 1.300 km đường hào bằng một nửa tổng chiều dài đất nước Việt Nam. Các loại hầm này được bố trí tại nơi dân cư, đường đi ven ruộng, bờ biển... để tiện lúc có báo động, nhân dân mau chóng vào ẩn núp. Không chỉ là đường hầm trú ẩn và chiến đấu như địa đạo Củ Chi mà hệ thống hầm hào ở Vĩnh Linh đã trở thành không gian sinh tồn. Các căn hầm được sử dụng làm bệnh xá, trường học, nhà trẻ, kho chứa lương thực. Sự sống đã lặn sâu xuống lòng đất, có nơi âm đến 30 m.
Mỗi địa đạo là hình ảnh thu nhỏ của một làng quê được kiến tạo dưới lòng đất. Đường hầm chính là đường làng, các ô đất là căn hộ gia đình. Ngôi nhà chung là hội trường được khoét rộng trong đường hầm với sức chứa 40-80 người, là nơi thường diễn ra các cuộc hội họp, sinh hoạt văn nghệ... Làng hầm còn có giếng nước, nhà trẻ, nhà hộ sinh, trạm xá. Và trong địa đạo này đã có hơn 60 đứa trẻ được sinh ra.
Cuộc sống dưới lòng đất rất khó khăn, hầu hết các làng hầm đều tiết kiệm chất liệu thắp sáng như dầu hoả, mỡ... Vì vậy, trong địa đạo luôn thiếu ánh sáng, chỉ những lức cần thiết như hội họp, cấp cứu bệnh nhân, chăm sóc trẻ sơ sinh mới dùng đèn.
Việc nấu ăn cũng phải duy trì dưới lòng địa đạo, nấu không được để khói bốc lên mặt đất làm lộ bí mật, địch phát hiện sẽ dội bom. Người dân Vĩnh Linh đã sáng tạo ra loại bếp nấu được dưới lòng đất mà hạn chế bốc khói lên trên, nhờ những đường hầm nhỏ dẫn khói tiêu tán lên mặt đất từ từ qua lớp đất mỏng.
Thế nhưng trong muôn vàn gian khổ ấy vẫn vang lên tiếng cười nói của trẻ thơ, chứng minh cho sức sống bất diệt của con người nơi đây. Và tiếng hát lời ca như không bao giờ bị dập tắt. Làng nào cũng có đội văn nghệ xung kích. Cả Vĩnh Linh trào dâng tiếng hát với khẩu hiệu: "Tiếng hát át tiếng bom".
Sau năm 1972, khi 2/3 tỉnh Quảng Trị được giải phóng, hệ thống làng hầm trở thành di tích lịch sử có giá trị, ghi dấu ấn một thời hào hùng, bất khuất của quân dân "luỹ thép" anh hùng, trở thành lâu đài cổ giấu kín biết bao điều kỳ lạ của con người đã làm ra nó và của thời đại mà nó được sinh ra.
TV (VNE)
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.